ĐỀ 1

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lỗ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới. 

Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ... 

Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không. 

(Trích phần 4, Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư, tr.19,20,  https://thuviensach.vn) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm, chị biết rằng chị muốn viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam Bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh. 

Âm thầm đến với văn chương và bừng sáng khi được nhận giải Nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 của NXB Trẻ, Nguyễn Ngọc Tư đã trở thành tâm điểm của sự hy vọng vào một nền văn trẻ đương đại. Chị đã tiếp tục có những cú nhảy ngoạn mục trên chặng đường văn cùng những tác phẩm được giới chuyên môn đánh giá cao. Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận (phát hành năm 2005) của chị gây được tiếng vang lớn, nhận được nhiều giải thưởng cũng như chuyển thể thành kịch, phim điện ảnh. 

"Cánh đồng bất tận" là một truyện ngắn cùng tên trong tuyển tập gồm 14 truyện ngắn. Cốt truyện chủ yếu xoay quanh cuộc sống của ba cha con: người cha Út Vũ, con gái Nương và Điền - đứa em trai kém một tuổi. Gia đình ba người mưu sinh với nghề mục đồng rong ruổi trên những cánh đồng tưởng chừng như dài vô tận. Vốn dĩ họ cũng đã từng có một mái ấm mang tên gia đình rất hạnh phúc dù cuộc sống cũng chẳng mấy dễ dàng, một gia đình với đôi vợ chồng và hai người con. Sau khi bị chính những đứa con của mình bắt gặp khi cô ngoại tình, cô đã lặng lẽ bỏ đi. Điều đó khiến cho Út Vũ vốn là một người hiền lành thay đổi. Mang trong mình nỗi hận thù và uất ức, ông căm hận phụ nữ, căm hận cái người mà đã bỏ ông đi theo người đàn ông khác. Ông đốt nhà, thế là mái ấm duy nhất cũng chẳng còn nữa.  

Cuộc đời mục đồng của gia đình ba người cũng như thế mà bắt đầu. Và đến một ngày kia, một nhân vật mới xuất hiện như một sự xuất hiện của đom đóm trong bóng đêm tăm tối - Sương. Cô được hai chị em Nương và Điền cứu thoát khỏi trận đánh ghen bởi vì...cô làm đĩ. Nhưng với những đứa trẻ, cô đã khiến cho cuộc sống vốn thiếu thốn tình thương gia đình cảm nhận được chút hơi ấm. Và lâu dần, cậu em trai Điền cũng dần có những cảm xúc với chị, những cảm xúc chỉ giấu trong lòng không dám nói ra. Và cứ như thế Điền đuổi theo chị, chị thì đuổi theo cha. Nhưng tiếc thay, hơi ấm ấy sao thật giống như một hòn than nhỏ mà mau chóng lụi tàn. Có lẽ vì quá tuyệt vọng và thấy rằng mình chẳng thể nào nhận được lời hồi đáp của tình yêu từ Vũ khi cô chỉ toàn nhận lại những sự khinh miệt đầy đắng cay, Sương đã bỏ đi. Ấy rồi Điền cũng chạy theo về phía của chị và rồi không quay trở lại. Gia đình ba người giờ đây chỉ còn hai cha con Vũ và cô con gái Nương mà thôi. Lúc này đây, ông Vũ mới dần nguôi ngoai và trở về như lúc trước. Và khi tưởng chừng như cánh cửa mang tên hạnh phúc đã gần mở cửa thì một biến cố bất ngờ đã xảy ra khi Nương bị hãm hiếp trước sự chứng kiến bất lực của người cha. Trong tiềm thức của mình, cô gọi lên hai tiếng “Điền ơi” khiến người cha đau đến sững sờ. Cô sợ mình có thai. Thế nhưng trong lòng cô luôn hướng đến ngày mai, một ngày mai tươi sáng... con cô sẽ được học hành, được mẹ dạy, trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn.”

(Nhã Tuyên. Bookademy) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể trong đoạn văn bản trên.  

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu cảm hứng chủ đạo của đoạn văn bản trên. 

Câu 3 (1 điểm). Đọc đoạn văn sau, xác định thông tin, hiện thực được phản ánh trong đoạn văn. Chúng có vai trò gì đối với toàn văn bản? 

Tôi Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lỗ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc rắn bông súng cắn chơi thôi. nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng tính toán xem thể cầm vịt đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.

Câu 4 (1 điểm). Đọc đoạn văn sau, xác định sự tương phản và mục đích của nhà văn khi thể hiện sự tương phản đó. 

lẽ cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi Điền buồn biết bao nhiêu, cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng cũng tan rồi…. 

Câu 5 (1 điểm). Nhận xét về phương pháp hiện thực của nhà văn trong đoạn trích trên. Từ hiện thực đó anh/chị nhận thức được điều gì trong cuộc sống? 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỀ 2

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

“ - Đồng chí Khuê vừa ở trên 475 về báo tin cậu Lữ con trai thủ trưởng đã hy sinh trên đó! 

Bác Đảo ngừng tay vít tông đơ, hỏi thảng thốt: 

- Cậu vừa nói ai hy sinh? 

- Cậu Lữ, con thủ trưởng Kinh! 

Qua tấm kính tròn, bác Đảo trông thấy đồng chí chính ủy vẫn không thay đổi sắc mặt. Ông chỉ cất tiếng hỏi bằng cái giọng hơi khàn đi: 

- Cậu Khuê vẫn còn ở dưới chỉ huy phải không? 

- Báo cáo, đồng chí Khuê vẫn còn ở lại đấy chờ thủ trưởng về. 

Những ngón tay khéo léo của người cấp dưỡng già trở nên lúng túng vụng về chưa từng thấy. Chiếc tông đơ nhay một mảnh tóc phía sau ót Kinh khiến bác Đảo hoảng hốt: 

- Thủ trưởng có đau không? 

- Không - Kinh an ủi - Bác cứ bình tĩnh mà cắt... 

Kinh ngồi không động đậy, chỉ có đôi vành mi mắt hơi đỏ rựng lên, con mắt bị thương vàng đục như ẩn sau một làn sương mù. Từ khi đó, bác Đảo không dám chạm mạnh những ngón tay lên mái tóc đồng chí chính ủy, bác chỉ sợ mình làm cho chính ủy đau đớn thêm! 

Nắng bên ngoài càng chói chang. Từ phía trận địa, 12 ly 7 lại giội sang từng loạt tiếng nổ giòn đanh. Kinh chờ cho bác Đảo cắt xong vội vàng theo cậu cần vụ trở về sở chỉ huy. Ông chào và bắt tay hai đồng chí cấp trên nồng nhiệt và niềm nở. Nhẫn, Vượng - bí thư tiểu đoàn 3, chủ nhiệm chính trị và các đồng chí thường vụ trung đoàn ủy đã có mặt đủ cả. Kinh vẫn bình thản. Ông mời mọi người ngồi vào, bắt đầu cuộc họp. Tất cả các đồng chí hiện có mặt đã thống nhất với nhau sau khi họp xong mới báo cho Kinh biết tin buồn. 

Kinh thay mặt thường vụ báo cáo với các đồng chí Đảng ủy cấp trên nhận định về tinh thần, tư tưởng của bộ đội, và quyết tâm của Đảng ủy trung đoàn. Đồng chí Chủ nhiệm chính trị Mặt trận chống tay suy nghĩ. Ông nheo nheo cặp mắt có những vết chân chim kéo dài sang tới bên thái dương nhìn tấm bản đồ phụ cận Tây Nam Tà Cơn trải rộng trước mặt”. 

(Trích Chương 16, Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu, trang 407,408, 

https://thuviensach.vn) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) sinh ra trong một gia đình nông dân ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1950, đang học chuyên khoa Trường Huỳnh Thúc Kháng, ông vào bộ đội và theo học Trường Sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn từ năm 1960, nhưng tên tuổi của ông chỉ thực sự được bạn đọc chú ý từ tiểu thuyết Cửa sông (1967). 

Suốt cuộc đời cầm bút, Nguyễn Minh Châu không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Bằng tâm huyết và tài năng, bằng khát vọng sáng tạo chân chính và bản lĩnh dũng cảm, Nguyễn Minh Châu đã trở thành một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học nước nhà từ sau năm 1975. Hành trình sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn rõ rệt: trước thập kỷ tám mươi, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn; từ đầu thập kỷ tám mươi đến khi mất, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thể sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. 

(SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr.89) 

“Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu là con đường hành quân ra chiến trường khá ấn tượng với khí thế mạnh mẽ, phấn chấn, vui tươi của thời đại chống Mỹ... Đi vào từng tình huống, từng trận đánh cụ thể, Nguyễn Minh Châu đã có những miêu tả chi tiết hơn. Đó là cuộc tiến công chớp nhoáng của tiểu đội trinh sát dưới sự chỉ huy của Khuê đánh thẳng vào căn cứ địch, khiến chúng không kịp trở tay, bị tiêu hao một lực lượng lớn, là cuộc đụng độ với một tiểu đội địch của Lữ và Đàm. Và không thể không nhắc đến chiến công thần kỳ bắn rơi máy bay Mỹ của Lượng, Hoan... Hình ảnh đồi 475 - cao điểm giành giật giữa hai bên mà cuối cùng quân giải phóng đã cố thủ bị sạn đi hai thước chiều cao vì bom cày đạn xới đã khắc họa mức độ ác liệt dữ dội có một không hai của mặt trận Trị - Thiên. "Đồi không tên”, nơi những người lính trẻ “đem ngực mình dựng thành chiến lũy cản mười đợt tiến công điên cuồng của địch", làm nên kỳ tích và đã hằn sâu trong ký ức người đọc nhiều thế hệ cũng được tạc dựng bằng những nét chạm khắc sử thi. Nhưng ở thời điểm đó, nó vẫn đủ sức khơi gợi tình yêu nước thiêng liêng. Dấu chân người lính khép lại ở chương “Đất giải phóng”, khi chiến thắng đã hoàn toàn thuộc về ta như một thành quả tất yếu, một món nợ mà kẻ thù phải trả sau những tội ác chúng đã gây nên. Phần thưởng cao quý nhất mà những người lính có được sau bao ngày tháng gian khổ, chiến đấu hy sinh quên mình, với từng thước đất là một vùng quê hương thân yêu đã được giải phóng... 

(Phương Pháp đọc hiểu viết, Ngữ văn 10, Đào Phương Huệ (chủ biên),  

Đỗ Ngọc Chi - Nguyễn Thị Thúy Hồng, NXB ĐHQG HN, 2024, tr 87,88) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nêu đề tài của tác phẩm. 

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định vị trí người kể chuyện. 

Câu 3 (1 điểm). Xác định thông tin, hiện thực được phản ánh trong đoạn văn bản trên. Chúng có vai trò gì đối với toàn văn bản? 

Câu 4 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau và cho biết đoạn văn bản đó là lời của những ai, từ điểm nhìn nào? 

Thủ trưởng đau không?

Không Kinh an ủi Bác cứ bình tĩnh cắt...

Kinh ngồi không động đậy, chỉ đôi vành mi mắt hơi đỏ rựng lên, con mắt bị thương vàng đục như ẩn sau một làn sương mù. Từ khi đó, bác Đảo không dám chạm mạnh những ngón tay lên mái tóc đồng chí chính ủy, bác chỉ sợ mình làm cho chính ủy đau đớn thêm!

Câu 5 (1 điểm). Cảm nhận của anh/chị về lòng yêu nước của dân tộc ta. 

 

ĐỀ 3

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

 

LỜI HỨA CỦA THỜI GIAN

“…  

Sau chiến tranh, ông về thăm quê quyết định trở lại vùng đồi này. Trở lại vùng đồi này, ông mang theo một người đàn trẻ. Người đàn đó vợ ông(...) Ông nói với vợ:

Anh sẽ trồng thông kín những quả đồi này.

Bao giờ mới kín được? Người vợ lo lắng hỏi.

Anh không biết Ông nói Nhưng anh sẽ trồng sẽ trồng kín.

Những đêm trăng sáng, ông thường ngồi im lặng nhìn lên đỉnh đồi. Mây lững lờ bay qua đỉnh đồi, ông nghe tiếng ông gọi đồng đội mình...

Vợ chồng ông Miêng sống trên vùng đồi như sống trên một vùng đảo hoang. những tuần lễ không một bóng người đi qua. Người dân đó không biết làm vùng đồi sỏi đá còn sót lại cả mìn từ chiến tranh này. Ông Miêng trồng tất cả những thứ thể mọc được trên đất đồi này quanh ngôi nhà nhỏ nuôi tất cả những thể sống được đây. Sau một năm, vùng đồi đỡ hoang vu hơn bởi những màu xanh đầu tiên được nhen lên bởi tiếng gà, tiếng chó. Ngày đầu tiên ông Miêng đến Sở Lâm nghiệp tỉnh xin cây thông non để trồng. Người Sở Lâm nghiệp nói giá mỗi cây thông non cho ông biết. nhanh hơn máy, ông ta tính cho một món tiền khổng lồ ông Miêng phải trả. Tôi không tiền. Tôi chỉ xin để trồng thôi. Ông Miêng nói. Người Sở Lâm nghiệp tròn mắt: “Thế thì ông lấy thông trồng”. Nghe vậy, ông Miêng bỏ đi. Ông gặp lãnh đạo tỉnh ông nói: Tôi giúp tỉnh trồng thông kín những quả đồi đó. Tôi chỉ trồng thông thôi. Tôi không lấy công, không lấy hết”. Lãnh đạo tỉnh nhìn ông khó hiểu. Ông nói: “Tất cả đồng đội tôi đã chết trên quả đồi kia. Bây giờ họ đang ngủ đó. Khi nào thông mọc kín những quả đổi thì tôi sẽ trở về quê. Lãnh đạo tỉnh ôm lấy ông. Sau đó Sở Lâm nghiệp cấp cây giống cho ông. Ông Miêng bỏ hết số tiền ông mua một con trâu để chở cây giống giúp ông những việc khác...

lúc con trâu dừng bước ngẩng cao đầu nhìn về dãy Trường Sơn xanh mờ... Con trâu ngước đôi mắt ươn ướt nhìn ông. Ông bước lại bên con trâu, vuốt ve cái khoáy trắng trên trán con trâu thì thầm: “Khi thông phủ kín những quả đổi, tao sẽ thả mày về với rừng”.

Hai năm sau, những cây thông được trồng đã bắt đầu rít gió. Đêm đêm, gió u u thổi qua rừng thông non trên sườn đồi. trong tiếng gió thổi lúc gần sáng tiếng trâu khua sừng thở gấp vừa náo nức vừa buồn bã. Những đám mây mang hình người lửng trôi qua những đỉnh đồi trong ánh trăng non. Nhiều đêm như thế, vợ ông đã khóc đòi ông dời bỏ vùng đồi về quê.”

 (Trích Lời hứa của thời gian, Nguyễn Quang Thiều) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Quang Thiều (sinh năm 1957) là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam. Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á - Phi; Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nguyễn Quang Thiều không chỉ là nhà thơ tiên phong với trào lưu hiện đại mà còn là cây viết văn xuôi giàu cảm xúc. Trong anh không chỉ có con người bay bổng, ưu tư với những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy bén. 

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn Quang Thiều) 

Tóm tắt. Lời hứa thời gian của Nguyễn Quang Thiều kể về nhân vật chính là ông Miêng, sau chiến tranh, ông ở lại đồi thông để trồng thông kín cả những quả đồi vì nỗi đau chiến tranh, nơi mà cả tiểu đội đã hy sinh hết chỉ còn mình ông. Sau chiến tranh, ông Miêng nhận phải bi kịch thời hậu chiến. Nhiễm chất độc màu da cam, con ông sinh ra cũng bị nhiễm chất độc đó và không thể sống được. Người vợ đợi chờ ông đằng đẵng suốt mười năm thời chiến thì nay bỏ ông trong thời bình. Một hy vọng hạnh phúc vừa nhen nhóm lên trong đời ông Miêng đã nhanh chóng vụt tắt, đấy là khi Hoa cuốc phải quả mìn còn sót trong chiến tranh và qua đời. Nỗi đau cũ còn chưa nguôi thì nỗi đau mới lại chồng lên người cựu chiến binh. Phần cuối truyện, con của vợ cũ đến tìm cha theo lời trăng trối của mẹ. Ông sống cùng con của vợ cũ và giữ kín bí mật mình không thể có con để hai người đàn ông sẽ mang đến cho nhau hơi ấm cuộc đời trong tất cả những tháng ngày sắp tới. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Cảm hứng chủ đạo trong đoạn trích trên?

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu nội dung chính của đoạn trích.

Câu 3 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau và phân tích hiệu quả của điểm nhìn trần thuật. 

Ông nói với vợ:

Anh sẽ trồng thông kín những quả đồi này.

Bao giờ mới kín được? Người vợ lo lắng hỏi.

Anh không biết Ông nói Nhưng anh sẽ trồng sẽ trồng kín.

Những đêm trăng sáng, ông thường ngồi im lặng nhìn lên đỉnh đồi. Mây lững lờ bay qua đỉnh đồi, ông nghe tiếng ông gọi đồng đội mình... 

Câu 4 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau và xác định mục đích của nhà văn khi kể lại chi tiết kết quả cụ thể của hai lần người Sở Lâm nghiệp và gặp lãnh đạo tỉnh. 

Ngày đầu tiên ông Miêng đến Sở Lâm nghiệp tỉnh xin cây thông non để trồng. Người Sở Lâm nghiệp nói giá mỗi cây thông non cho ông biết. nhanh hơn máy, ông ta tính cho một món tiền khổng lồ ông Miêng phải trả. Tôi không tiền. Tôi chỉ xin để trồng thôi. Ông Miêng nói. Người Sở Lâm nghiệp tròn mắt: “Thế thì ông lấy thông trồng”. Nghe vậy, ông Miêng bỏ đi. Ông gặp lãnh đạo tỉnh ông nói: Tôi giúp tỉnh trồng thông kín những quả đồi đó. Tôi chỉ trồng thông thôi. Tôi không lấy công, không lấy hết”. Lãnh đạo tỉnh nhìn ông khó hiểu. Ông nói: “Tất cả đồng đội tôi đã chết trên quả đồi kia. Bây giờ họ đang ngủ đó. Khi nào thông mọc kín những quả đồi thì tôi sẽ trở về quê. Lãnh đạo tỉnh ôm lấy ông. Sau đó Sở Lâm nghiệp cấp cây giống cho ông. 

Câu 5 (1 điểm). Việc ông Miêng “Xin cây thông non để trồng”; ông “trồng tất cả những thứ thể mọc được trên đất đồi này quanh ngôi nhà nhỏ nuôi tất cả những thể sống được đây” cho chúng ta nhận thức vấn đề gì? Tác giả muốn gửi gắm điều gì đến người đọc? 

ĐỀ 4

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

“… 

Rồi vợ ông mang thai, ông ôm vợ và nói: “Chúng mình sẽ có một thằng con trai. Vùng đồi này sẽ có thêm một người trồng thông”. Nhưng ngày vợ ông sinh là ngày khủng khiếp nhất trong đời ông. Đứa bé không thành người. Nó chết ngay sau khi được sinh ra... Ông chôn đứa bé trên đỉnh đồi nơi cả tiểu đội của ông đã nằm ở đó. Những ngày sau đó thỉnh thoảng ông để cho vợ đánh chiếc xe trâu lọc cọc về thị xã chơi với người quen cho khuây khỏa. Còn ông lại lao vào trồng thông từ sáng đến tối... Ông quyết liệt trồng thông phủ kín những quả đồi và quyết liệt có con. Vợ ông mỗi ngày một ít nói và đánh xe trâu về thị xã nhiều hơn... Chị đã bỏ ông, bỏ vùng đồi đi theo một người đàn ông khác mà chị gặp và trở nên thân thiết trong những lần đánh xe trâu về thị xã. (...) 

Đêm đó, ông lên cơn sốt thật. Trong cơn mê man, ông thấy đồng đội ông ôm súng nằm phủ kín những quả đồi. Ông đi lang thang trên những quả đồi và gọi tên đồng đội. Không ai trả lời ông. Tất cả đã yên nghỉ mãi mãi trên những quả đồi kia. Ông nằm bệt trên giường hai ngày liền. Một nhân viên của trạm cây giống lên thăm ông. Thấy ông ốm, anh ta vội đón một nữ y tá đến thăm bệnh và chăm sóc ông. Mấy ngày sau ông khỏi và lại đánh xe đến trạm cây giống lấy thông con. Ông lại trồng thông từ sáng đến tối mịt. Lúc nào đói thì nấu ăn, lúc nào mệt thì nằm ngủ, không theo quy luật nào cả. 

Cứ khoảng một tháng, ông Miêng lại đánh xe về thị xã. Sau khi mua sắm những thứ cần thiết cho sinh hoạt và công việc, ông ghé qua nhà quen của vợ chồng ông. “Có thấy cô ấy về đây không?” Khi gặp người quen, ông thường hỏi câu đó. Người đàn bà nhìn ông vừa ái ngại vừa như có lỗi và lắc đầu. Và trước khi bước lên xe để trở về ông đều nói: “Có gặp vợ tôi thì bảo với cô ấy là tôi vẫn đợi cô ấy”. 

(Trích Lời hứa của thời gian, Nguyễn Quang Thiều) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Quang Thiều (sinh năm 1957) là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam. Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á - Phi; Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nguyễn Quang Thiều không chỉ là nhà thơ tiên phong với trào lưu hiện đại mà còn là cây viết văn xuôi giàu cảm xúc. Trong anh không chỉ có con người bay bổng, ưu tư với những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy bén. 

(Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn Quang Thiều) 

Tóm tắt. Lời hứa thời gian của Nguyễn Quang Thiều kể về nhân vật chính là ông Miêng, sau chiến tranh, ông ở lại đồi thông để trồng thông kín cả những quả đồi vì nỗi đau chiến tranh, nơi mà cả tiểu đội đã hy sinh hết chỉ còn mình ông. Sau chiến tranh, ông Miêng nhận phải bi kịch thời hậu chiến. Nhiễm chất độc màu da cam, con ông sinh ra cũng bị nhiễm chất độc đó và không thể sống được. Người vợ đợi chờ ông đằng đẵng suốt mười năm thời chiến thì nay bỏ ông trong thời bình. Một hy vọng hạnh phúc vừa nhen nhóm lên trong đời ông Miêng đã nhanh chóng vụt tắt, đấy là khi Hoa cuốc phải quả mìn còn sót trong chiến tranh và qua đời. Nỗi đau cũ còn chưa nguôi thì nỗi đau mới lại chồng lên người cựu chiến binh. Phần cuối truyện, con của vợ cũ đến tìm cha theo lời trăng trối của mẹ. Ông sống cùng con của vợ cũ và giữ kín bí mật mình không thể có con để hai người đàn ông sẽ mang đến cho nhau hơi ấm cuộc đời trong tất cả những tháng ngày sắp tới. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Đoạn văn bản viết về đề tài gì?

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu vị trí người kể chuyện.

Câu 3 (1 điểm). Tìm những chi tiết viết về những việc làm cụ thể của ông Miêng. Phân tích tác dụng của nó đối với việc khắc họa nhân vật và thể hiện chủ đề của văn bản. 

Câu 4 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau:  

Cứ khoảng một tháng, ông Miêng lại đánh xe về thị xã. Sau khi mua sắm những thứ cần thiết cho sinh hoạt công việc, ông ghé qua nhà quen của vợ chồng ông. “Có thấy ấy về đây không?” Khi gặp người quen, ông thường hỏi câu đó. Người đàn nhìn ông vừa ái ngại vừa như lỗi lắc đầu. trước khi bước lên xe để trở về ông đều nói: “Có gặp vợ tôi thì bảo với ấy tôi vẫn đợi ấy”. 

Phân tích hiệu quả của điểm nhìn trần thuật và nhận xét về chủ thể trần thuật trong đoạn trích. 

Câu 5 (1 điểm). Xây dựng chi tiết đứa con của ông Miêng bị chết, vợ ông Miêng bỏ đi cho chúng ta nhận thức vấn đề gì về phong cách hiện thực của nhà văn? Tác giả muốn gửi gắm điều gì đến người đọc? 

ĐỀ 5

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

“… 

cái đó hơn ai oán trong những lời ấy. Đó chính cái giọng từng thốt ra. gái Ai Cập cảm động mở mắt. Phía cửa sổ y không còn đấy. bước tới cửa sổ, trông thấy tội nghiệp nép vào góc tường, dáng bộ đau khổ, cam chịu. cố gắng vượt lên cái ghê tởm của mình, nói dịu dàng:

Lại đây, anh.

Trông thấy môi mấp máy, Quasimodo tưởng đuổi hắn, y rút lui, chậm chạp, đầu cúi gằm, không dám ngước lên gái cái nhìn tuyệt vọng của y.

kêu lên:

Lại đây nào.

Nhưng hắn tiếp tục lánh xa. lao ra khỏi lim, chạy theo, nắm lấy cánh tay y. Y ngước mắt lên vẻ van vỉ. Thấy gái kéo hắn đến gần, mặt hắn rạng lên vui mừng. muốn hắn vào trong lim, nhưng hắn cố tình đứng ngoài ngưỡng cửa.

Không, không. Hắn nói.

ngồi xuống duyên dáng trên cái nệm, con nằm bên chân. Càng lúc, nhận ra thêm những dị dạng của Quasimodo. Mắt lướt nhìn từ cái đầu gối khoèo đến cái lưng gù, từ cái lưng đến con mắt chột. Tuy nhiên một chút buồn dịu dàng tỏa trên những cái đó làm bắt đầu quen dần.

Hắn phá vỡ im lặng.

bảo tôi quay lại à?

gật đầu, nói:

Phải.

Hắn hiểu cái gật đầu ấy.

Chao ôi! Hắn ngập ngừng... Chả tôi bị điếc.

Con người tội nghiệp! gái kêu lên với lòng thương cảm nhân từ.

Hắn mỉm cười, đau khổ:

thấy chỉ còn thiếu cái đó phải không?

Vâng, tôi bị điếc. Tôi sinh ra đã như thế. Kinh khủng, phải không?

Trong giọng nói của con người khốn khổ một cảm thức sâu xa về nỗi bất hạnh của mình khiến gái cảm động không thể nói nên lời.

Hắn cười nói tiếp, cái cười còn nát lòng hơn:

Vâng, tôi bị điếc. Nhưng thể nói chuyện với tôi bằng điệu bộ. Tôi một ông thầy cũng nói chuyện với tôi bằng cách ấy. Tôi thể nhanh chóng hiểu ý cô, theo cử động của môi cô, theo cái nhìn của cô.

gái mỉm cười:

Này, hãy nói xem: sao anh cứu tôi?

Hắn chăm chú nhìn khi nói:

Tôi hiểu. hỏi sao tôi cứu cô. quên một kẻ khốn nạn đã cứu trên cột bêu người à? Một giọt nước, một chút lòng thương, đó những cái tôi trả giá bằng mạng sống của mình. thì quên kẻ khốn nạn đó, còn hắn thì hắn nhớ... Nghe hắn nói gái mủi lòng sâu sắc.

Một giọt nước mắt lăn dài trên đôi mắt của kéo chuông.

Xin hãy nghe đây. Dưới kia những tháp rất cao. Một người rơi xuống sẽ chết ngay, trước khi chạm đất. Khi nào muốn rơi xuống, không cần nói, chỉ một ánh mắt đủ.

Hắn đứng lên. ra hiệu cho hắn lại.

Không, không. Hắn nói. Tôi không được lại lâu. Tôi không được thoải mái khi nhìn tôi. Nếu thương tôi thì không nhìn đi.

Tôi đi đâu đó để thể nhìn không trông thấy tôi. Như thế tốt hơn.

Hắn rút trong túi ra một cái còi nhỏ bằng kim khí:

cầm lấy, khi nào cần đến tôi, khi muốn tôi đến, khi nào không thấy quá ghê tởm khi phải nhìn thấy tôi thì thổi cái còi này, tôi sẽ nghe tiếng.

Hắn đặt cái còi xuống nền nhà lủi mất.”

(Trích Chương 11 – Gã dị dạng, Nhà thờ Đức Paris, Victor-Marie Hugo, tr64-65, 

https://thuviensach.vn) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Victor‐Marie Hugo (1802 - 1885) tại Pari, là một nhà văn, thi sĩ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Ông cũng đồng thời là một chính trị gia, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX. Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau.  

Tóm tắt tác phẩm Nhà thờ Đức Pari

Esméralda là một cô gái xinh đẹp cô làm nghề múa rong trước nhà thờ Đức Bà, công việc này bị sự cấm đoán của phó giám mục nhà thờ là Claude Frollo. Ông này đã say mê cô vũ nữ lúc nào không hay và ông đã lệnh cho Quasimodo bắt cóc Esméralda, sự việc không thành Quasimodo bị bắt, cô vũ nữ bắt đầu yêu đại úy Phoebus người đã cứu cô. Esméralda đã đem nước cho Quasimodo uống trong lúc hắn bị giam giữ. Esméralda đã đánh thức trái tim hoen rỉ của Quasimodo và hắn đã bắt đầu một tình yêu bất diệt không cần đền đáp.  

Esméralda yêu Phoebus một cách mù quáng, dù Phoebus thực chất chỉ là một gã Sở Khanh, đã có hôn thê là một cô tiểu thư. Khi Esméralda hẹn hò với viên đại úy, phó giám mục yêu Esméralda đã theo dõi đôi tình nhân và y đã không kiềm chế được nỗi ghen tuông khi thấy 2 người yêu nhau, hắn đã đâm Phoebus rồi bỏ trốn. Esméralda bị kết án về hai tội: giết người và làm phù thủy. Esméralda bị kết án treo cổ. Quasimodo phá pháp trường để cứu Esméralda, đem cô trú ẩn an toàn trong nhà thờ Đức Bà. Những người ăn mày chờ Esméralda nhưng không thấy cô trở lại đã tấn công vào nhà thờ để cứu cô nhưng Quasimodo tưởng họ đã đến giết Esméralda nên tấn công và đẩy lùi họ.  

Phó giám mục Claude Frollo tuyệt vọng đến mức mất cả lý trí và nhân tính. Hắn phát hiện ra Esméralda đang trú ẩn trong nhà thờ nên đã ép buộc và đe dọa cô. Với sự che chở của Quasimodo, Esméralda vẫn sống bình an và vẫn yêu Phoebus. Frollo đã ra điều kiện buộc Esméralda phải ưng thuận mình nếu không sẽ báo cho cảnh binh, cô thà chết chứ không chịu.  

Frollo đã giao cô cho một bà tu điên dại với mục đích hành hạ Esméralda cho đến chết nhưng 2 mẹ con đã nhận ra nhau nhờ đôi giày trẻ em cô luôn mang bên mình. Cuối cùng cô cũng bị phát hiện và bị treo cổ lần thứ 2. Quasimodo biết được đầu đuôi câu chuyện nên đã xô ngã Frollo từ trên tháp chuông nhà thờ xuống đất và ôm xác Esméralda chết chung trong hầm mộ. Khi khai quật hầm mộ, người ta thấy 2 bộ xương, một bộ không bình thường ôm lấy bộ xương kia, họ định tách ra thì bộ xương không bình thường tan thành tro bụi.  

(Cungdocsach.vn) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể  

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu nội dung chính của đoạn trích trên.

Câu 3 (1 điểm). Tác giả đã dùng những điểm nhìn trần thuật nào để khắc họa nhân vật Quasimodo. Điều đó có tác dụng như thế nào? 

Câu 4 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau và chỉ rõ việc di chuyển điểm nhìn của tác giả có tác dụng như thế nào khi thể hiện thái độ của mình đối với nhân vật. 

Tôi hiểu. hỏi sao tôi cứu cô. quên một kẻ khốn nạn đã cứu trên cột bêu người à? Một giọt nước, một chút lòng thương, đó những cái tôi trả giá bằng mạng sống của mình. thì quên kẻ khốn nạn đó, còn hắn thì hắn nhớ... Nghe hắn nói gái mủi lòng sâu sắc.

Một giọt nước mắt lăn dài trên đôi mắt của kéo chuông.

Câu 5 (1 điểm). Nhận xét về phương pháp sáng tác của nhà văn. Đoạn trích trên đã thể hiện giá trị văn hóa nhân sinh nào? 

ĐỀ 6

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

[…] Nhưng nói, trao đổi những ý nghĩ, những nỗi lòng, lẽ cái tật chung của loài người. Không được nói thì khổ lắm. Từ ngày ông Lang Rận, những lúc không ai, mụ Lợi thường lân la nói chuyện với ông. ông lang, chẳng biết nói chuyện với ai, cũng nói chuyện với mụ để người nói với. Mới đầu, chỉ những chuyện quanh quẩn trong bếp. Đại khái, họ hỏi nhau:

Bếp rỗi không?

Rỗi. Ý dáng ông lang định thổi cơm ăn? Đã đói bụng rồi đấy à?

Đói hay không thì cũng phải ăn cho xong bữa chứ!

Đã gần hết gạo chưa? lẽ mai tôi lại phải đi chợ Huyện. Còn muốn đong mấy đồng thì gửi tiền tôi đong giùm...

Dần dà, thỉnh thoảng mụ hỏi ông lang về những bệnh của đàn bà.

[…] Được ít lâu, cựu Đính biết. ..

Sáng hôm sau..

Ông cựu vừa về đến ngõ, cựu đã chạy ra, nhăn nhở:

Ông chỉ đi suốt đêm, chả nhà xem. Đêm qua, chúng tôi bắt được thằng kẻ trộm.

Chỉ bậy thôi!

Thật đấy! Thằng kẻ trộm lẻn vào buồng mụ Lợi. Tôi lừa khóa được cửa, nhốt cu cậu trong ấy. Ông về xem mặt nào.

Đính đưa mắt nhìn anh, cười ranh mãnh. cựu nháy em chồng, cười, ông cựu biết ngay chuyện rắc rối. Ông lật đật đi thẳng vào buồng bếp. Vợ em vừa theo, vừa khúc khích:

đưa chìa khóa cho anh mở..

Đính đưa chìa khóa cho ông cựu. Ông mở khóa. Ông đẩy tung hai cánh cửa ra. ông giật nẩy mình. Mặt ông quay lại, tái ngắt đi. Mắt ông đôi mắt của một người hoảng hốt. cựu Đính ngạc nhiên:

thế?

Họ nhìn vào căn buồng vừa mở cửa. Một đôi chân tím bầm lủng lẳng trên không khí. Đó ông Lang Rận. Ông thắt cổ! Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng gốc của mụ Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông ngoẹo xuống, như một thằng khi dỗi. Trông thật thiểu não. Nhưng không ai kịp ái ngại cho ông cả. Đây án mạng! Lôi thôi lắm! Lôi thôi lắm! Cả nhà ông cựu cuống quýt, lo xanh mắt. Riêng mụ Lợi vẫn nằm ngủ, miệng hốc ngáy to như xẻ gỗ. cựu phát mụ đôm đốp năm, sáu cái mụ mới giật mình, choàng dậy. Mụ ngơ ngác nhìn quanh. khi trông thấy tình nhân, mụ lên. Mụ vật người, khóc rống như một con chó chưa quen xích. Tội nghiệp cho con người quá ù lì! Sau khi cãi nhau rồi, mụ lăn ra ngủ thật say. Mụ ngờ đâu trong lúc ấy thì tình nhân ngồi nghĩ ngợi xa gần. Y thẹn. Y buồn. Y giận đời. Y giận trời. Y giận thân. Y tím ruột, tím gan. Y nghĩ đến cái nhục sáng hôm sau...

Ấy thế rồi y đã bật diêm lên, tìm một cái thể làm một cái dây...

(Lang Rận, https://truyenhdx.com/truyen/tuyen-tap-nam-cao/) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nhà văn Nam Cao (1915 -1951) là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo và cũng là một chiến sĩ, liệt sỹ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng tháng Tám), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ XX. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. 

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam Cao) 

Tóm tắt

Truyện ngắn Lang Rận kể về một anh chàng làm nghề bốc thuốc dạo chữa bệnh muộn con cho ông bà cựu - một nhà giàu có ở trong làng (tên Lang Rận là tên bà cựu và cô Đính - em chồng bà cựu đặt cho ông lang ở bẩn, người luôn có rận). Cùng sống quanh quẩn nơi xó bếp nhà ông cựu và cùng chịu đủ mọi “khinh bỉ, lườm nguýt, phỉ nhổ, nhạo cười, chế giễu, đủ trăm hình, trăm cấp” từ gia chủ với Lang Rận là mụ Lợi. 

Nếu Lang Rận xuất thân trong cảnh gia đình sa cơ thất thế, kiếm ăn với nghề bốc thuốc dạo thì mụ Lợi lại không chồng không con, qua ngày với nghề đi ở thuê. Hai cuộc đời lỡ dở ấy đã tìm thấy ở nhau niềm đồng cảm. Nhưng cũng vì sự can thiệp thô bạo của gia đình ông cựu, cuộc tình duyên ấy lại có một cái kết thật chua xót với cái chết của Lang Rận. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra ngôi kể trong đoạn trích trên ?  

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu điểm nhìn trần thuật trong đoạn trích là gì?  

Câu 3 (1 điểm). Đoạn trích sắp xếp sự việc theo điểm nhìn trần thuật thời gian hay không gian? Tác dụng của cách kể ấy?  

Câu 4 (1 điểm). Phân tích hiệu quả của điểm nhìn trần thuật và cách dùng từ, dùng câu đặc biệt trong đoạn sau: 

Mụ ngờ đâu trong lúc ấy thì tình nhân ngồi nghĩ ngợi xa gần.

Y thẹn. Y buồn. Y giận đời. Y giận trời. Y giận thân. Y tím ruột, tím gan. Y nghĩ đến cái nhục sáng hôm sau….

Câu 5 (1 điểm). Nhận xét về chủ thể trần thuật trong đoạn trích câu hỏi 4. Từ đó anh/chị nhận ra được giá trị văn hóa nhân sinh như thế nào?  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỀ 7

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

“Cái rương ấy, Tân chịu khó tha từ Nội vào để rồi bỏ đấy. Một năm sau, dọn dẹp buồng chứa đồ dưới tầng hầm, chị người làm khuân lên, cho ra ngoài sân, toan thải. Nom như cỗ áo quan. Đứa con gái lớn của Tân nói đùa. Còn vợ anh thì bảo cái thứ này lạc vào biệt thự nhà mình chẳng khác một cái bát cóc gặm được tìm thấy trong dinh ông Thạch Sùng.

Thực tình Tân cũng nào thiết, nhưng chẳng lẽ không giữ lấy một tị ti kỷ vật của mẹ. Vả lại, mẹ mất rồi, nhà của cha của mẹ mình đã bán đi, mọi thứ trong nhà mình cứ để vất vưởng hết cả đó, chẳng buồn đi một thứ gì, không chừng mình sẽ mang tiếng hợm. Chị gái của Tân bảo thế. Ông anh của Tân lựa chiếc ti vi. chị chở đi cái tủ lạnh. Còn Tân thì mãi khi sắp lên ta‐xi ra sân bay mới đành miễn cưỡng chọn lấy cái rương kề giường mẹ. Xoàng xĩnh, nhưng vật đã từng theo Tân đi trọ học tán suốt mấy năm cấp ba. Hơn nữa, chẳng cồng kềnh nặng nhọc gì, rương loại nhỏ, nhẹ không.

Tân bảo chị người làm lau sạch bụi bặm rồi tìm cách cậy cái khóa xíu đã mất chìa. Nắp rương mở ra, nhẹ hắt lên mùi băng phiến. Chẳng ngoài thư từ với giấy má, tất cả đã úa vàng. Sổ học bạ, sổ liên lạc, những bằng khen chứng chỉ học sinh giỏi của anh chị em nhà Tân. Một cuốn an‐bom khổ nhỏ kẹp rời rạc những tấm hình cỡ bằng con tem. Dăm thư của anh trai Tân gửi từ Liên Xô, của chị gái Tân từ Đông Đức của Tân từ Tiệp Khắc. Đáy rương còn một bọc đấy nữa nằng nặng, khá dày, lẽ cũng một xấp thư được gói kỹ trong giấy báo. Rồi một cuốn sổ gạo. Một tệp những phiếu vải, phiếu thực phẩm đã cắt gần trụi các ô. “Mẹ nhà mình lắm cái lỗi thời không tả được”, Tân thường nghe chị gái than vậy. Bao nhiêu những sự khổ sở một thời, người ta đã loại hết, mẹ mình cứ giữ rịt. Nhìn căn hộ thì thấy thôi, đồ đạc toàn những thứ già ngang một đời người, bài trí cũng đã mấy chục năm rồi không xích. Con trai, con gái ai nấy nhà lầu biệt thự đều thiết tha được rước mẹ về cùng, nhưng cụ cứ dứt khoát không đi đâu khỏi cái tầng khu tập thể. Già cả như thế, lụi cụi một mình, nhất định không muốn nghe tới chuyện thuê “ô sin”.

“Nhưng sợ nhất vẫn cái tính mẹ nhà mình lúc nào cũng đăm chiêu ít lời”. chị phàn nàn. “Con cháu khó nghĩ hết sức. Lựa lời hỏi xem điều khiến mẹ không hài lòng thì mẹ lắc đầu rằng không. sự thực thế. Nhà mình trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình. Anh cậu, rồi cậu, rồi chị, đều thành đạt, dâu rể cũng vậy, lứa cháu nữa, đều khá, đều ngoan ngoãn, giỏi giang, đều tương lai rất sáng. Thành thử hỏi rằng sao mẹ nhà mình cứ rầu rầu, lặng lặng cứ thích thui thủi thế, thì chịu thôi, không tài nào ai hiểu nổi. Hay tính nết mẹ nhà mình đã cố hữu như vậy rồi từ xưa?”.

Chị không nhớ thì tất nhiên Tân càng không thể nhớ hồi xưa mẹ thế nào, vui nhiều hay buồn nhiều. Nhưng Tân công nhận trong tuổi già thì mẹ mình đúng sự không ổn thật. Về sức khoẻ của mẹ thì Tân luôn an tâm. Mẹ chưa mắt mờ chân chậm, cũng chưa lẫn đâu, đừng lo, chính mẹ vẫn bảo với anh thế mỗi lần anh từ Sài Gòn ra đến vấn an. Về mặt tình cảm thì phải nói ông anh, chị của Tân Nội cả Tân, cách xa trong này, đều thực sự một lòng hiếu thảo. Còn về mặt vật chất, đừng nói bây giờ, ngay từ thời bao cấp, ba anh chị em Tân đều mức sống cao hơn người ta, cả ba đều khả năng lo cho mẹ không phải thiếu thốn một thứ gì. càng về sau này lại càng điều kiện chăm lo cho mẹ đầy đủ hơn. Vậy thì sao mẹ không vui chứ. ngại nhất trông cụ cứ càng năm càng buồn hơn. Cũng như ông anh, cũng như chị, Tân chịu, không hiểu.” 

(Trích Gọi con trong tập Truyện ngắn hay 2004,  NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr. 5-13) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Bảo Ninh sinh năm 1952, tên khai sinh là Hoàng Ấu Phương, quê ở tỉnh Quảng Bình. Ông vào bộ đội năm 1969, giải ngũ năm 1975, bước vào làng văn với truyện ngắn Trại bảy chú lùn in năm 1987. Tác phẩm chính của ông: Nỗi buồn chiến tranh (tiểu thuyết, 1991), Truyện ngắn Bảo Ninh (2002), Lan man trong lúc kẹt xe (truyện ngắn, 2005), Chuyện xưa kết đi, được chưa? (truyện ngắn, 2009), Tạp bút Bảo Ninh (2015),... 

Bảo Ninh là người tiên phong trong việc đổi mới phương pháp viết tiểu thuyết khi đã dùng thủ pháp đồng hiện và bút pháp “dòng ý thức”. Trong Gọi con, tác giả cũng sử dụng phương pháp viết tiểu thuyết khi đã dùng thủ pháp đồng hiện và bút pháp “dòng ý thức”. để thể hiện đời sống nội tâm của một nhân vật hồi tưởng về người mẹ lúc còn sống trông cụ cứ càng năm càng buồn bã hơn, nhưng khi mẹ mất một thời gian mở cái rương đọc lại những bức thư mẹ gửi cho Nghĩa - đứa con út trong nhà đã hy sinh, Tân mới thấu hiểu nỗi đau âm thầm của lòng mẹ suốt bao năm qua. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1(0,5 điểm). Xác định ngôi kể của đoạn trích

Câu 2 (0,5 điểm). Nhận xét về cách mở đầu truyện Gọi con. 

Câu 3 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau và phân tích ngắn gọn thủ pháp “đồng hiện” và bút pháp “dòng ý thức” của nhà văn. 

Tân bảo chị người làm lau sạch bụi bặm rồi tìm cách cậy cái khóa xíu đã mất chìa. Nắp rương mở ra, nhẹ hắt lên mùi băng phiến. Chẳng ngoài thư từ với giấy má, tất cả đã úa vàng. Sổ học bạ, sổ liên lạc, những bằng khen chứng chỉ học sinh giỏi của anh chị em nhà Tân. Một cuốn an‐bom khổ nhỏ kẹp rời rạc những tấm hình cỡ bằng con tem. Dăm thư của anh trai Tân gửi từ Liên Xô, của chị gái Tân từ Đông Đức của Tân từ Tiệp Khắc. Đáy rương còn một bọc đấy nữa nằng nặng, khá dày, lẽ cũng một xấp thư được gói kỹ trong giấy báo. Rồi một cuốn sổ gạo. Một tệp những phiếu vải, phiếu thực phẩm đã cắt gần trụi các ô. “Mẹ nhà mình lắm cái lỗi thời không tả được”, Tân thường nghe chị gái than vậy. Bao nhiêu những sự khổ sở một thời, người ta đã loại hết, mẹ mình cứ giữ rịt. Nhìn căn hộ thì thấy thôi, đồ đạc toàn những thứ già ngang một đời người, bài trí cũng đã mấy chục năm rồi không xích. Con trai, con gái ai nấy nhà lầu biệt thự đều thiết tha được rước mẹ về cùng, nhưng cụ cứ dứt khoát không đi đâu khỏi cái tầng khu tập thể. Già cả như thế, lụi cụi một mình, nhất định không muốn nghe tới chuyện thuê “ô sin”.

Câu 4 (1 điểm). Anh/chị cảm nhận được ý nghĩa gì qua chi tiết cái rương trong đoạn trích?

Câu 5 (1 điểm). Đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ, cảm xúc gì về cha, mẹ hoặc những người thân trong gia đình?

 

 

   

ĐỀ 8

 

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu:  

 

LỖI DƯƠNG ĐỖ THIẾU LĂNG MỘ

Phiên âm

Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư), Bình sinh bội phục vị thường li.

Lỗi Dương tùng bách bất tri xứ,

Thu phố ngư long hữu sở ti (tư). Dị đại tương liên không sái lệ, Nhất cùng chí thử khởi công thi? Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?

Địa hạ linh quỷ bối xi.

Dịch nghĩa

MỘ ĐỖ THIẾU LĂNG LỖI DƯƠNG

Văn chương ông lưu truyền muôn đời, ông cũng bậc thầy muôn đời, Bình sinh khâm phục ông, không lúc nào ngớt.

Cây tùng cây bách Lỗi Dương không thấy đâu nữa,

Trong lúc rồng nằm bến thu, chạnh lòng tưởng nhớ. hai thời đại khác nhau, thương nhau luống rơi nước mắt, Ông cùng khổ như thế phải thơ hay?

Cái bệnh lắc đầu cũ, bây giờ đã khỏi chưa?

Dưới suối vàng đừng để bọn quỷ cười.

 

Dịch thơ

Nghìn thuở văn chương đúng bậc thầy, Trọn đời khâm phục dám đơn sai.

Bách tùng đất Lỗi tìm đâu thấy,

Rồng sông thu nhớ chửa khuây. Rơi lệ luống thương người thuở trước, Hay thơ bởi cực nhường này?

Lắc đầu bệnh khỏi hay chửa? Đừng để bầy ma nhạo báng rầy.

(Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học Hà Nội, 1978, tr.322 - 324) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Du (1766-1820) tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới". 

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn Du) 

Tác phẩm Truyện Kiều của ông được xem là một kiệt tác văn học, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ba tập thơ chữ Hán, Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục là tâm sự của Nguyễn Du trong từng giai đoạn. Có thể xem ba tập thơ này là ba tập nhật ký ghi trong một khoảng thời gian dài, từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm nhà thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết 5 năm. Bài thơ nào cũng chứa đựng một lời tâm sự. Ngay những bài tức cảnh vịnh sử khi đi sứ Trung Quốc cũng không phải là những bài tức cảnh, vịnh sử thuần túy mà đều có bao hàm tâm sự của nhà thơ, bộc lộ thái độ sống của nhà thơ một cách hết sức rõ rệt. 

Chú giải:

(1). Đỗ Thiếu Lăng: tức Đỗ Phủ (712 - 770), nhà thơ vĩ đại đời Đường.  

(2). Lỗi Dương … xứ: ở phía đông nam huyện Hành Dương, tỉnh Hồ Nam (đời Thanh thuộc Hàng Châu (Trung Quốc)). Theo tiểu sử của Đỗ Phủ thì Đỗ Phủ mất trên một con thuyền ở phía thượng du sông Tương. Sau khi chết, gia đình nghèo không có sức đem về quê an táng, bèn táng ở Nhạc Châu. Bốn mươi ba năm sau (813), cháu là Đỗ Tự Nghiệp mới dời thi hài từ Nhạc Châu về táng ở chân núi Thú Dương (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Tuy vậy, ở Lỗi Dương cũng có một ngôi mộ giả để tưởng nhớ nhà thơ. Ngôi mộ này do huyện lệnh Lỗi Dương họ Nhiếp cho xây. Nguyên lúc còn sống, Đỗ Phủ đến Hàng Châu định xuống Bân Châu ở phía nam tìm ông cậu là Thôi Vũ làm lục sự tham quân ở đó. Ông huyện lệnh Lỗi Dương được tin, gửi thư hỏi thăm và đưa rượu thịt tặng nhà thơ. Đỗ Phủ có làm một bài thơ cảm ơn, nhưng gặp lụt, nước sông lên to, không đem bài thơ đó cho họ Nhiếp được, mà lại trở về Hàng Châu. Đến khi nước xuống, họ Nhiếp sai người tìm Đỗ Phủ, tìm không ra, tưởng nhà thơ bị nước cuốn đi rồi nên mới xây một ngôi mộ để tưởng nhớ. 

(3). Thu phố … ti (tư): trong bài thơ Thu hứng IV, Đỗ Phủ có viết: “Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,/ Cố quốc bình cư hữu sở tư.” (Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh,/ Nước cũ ngày nào cứ tưởng mơ.). Câu thơ của Nguyễn Du ý nói Đỗ Phủ xa quê hương, đến mùa thu lại nhớ nhà. 

(4). Trạo đầu ... thuyên vị: tiểu sử nói Đỗ Phủ mắc nhiều bệnh, lúc về già thì điếc, nói chuyện với ai phải viết ra giấy, cánh tay phải tê liệt, lúc viết thư thì con viết thay. Còn như bệnh lắc đầu, không thấy nói đến. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nêu cách gieo vần của bài thơ?  

Câu 2 (0,5 điểm). Nguyên tắc đối cố định của thơ trên được thể hiện như thế nào? 

Câu 3 (1 điểm). Hai câu đề, có nhiệm vụ gợi ra sự việc trong bài thơ. Vậy, trong bài thơ Mộ Đỗ Thiếu Lăng Lỗi Dương của Nguyễn Du gợi ra sự việc gì?

Câu 4 (1 điểm). Hai câu luận, được dùng để nói lên cảm xúc/ý kiến của tác giả. Anh/chị hãy phân tích ngắn gọn cách thể hiện của tác giả trong hai câu luận đó.  

Câu 5 (1 điểm). Từ chủ đề bài thơ, theo anh/ chị, đại thi hào Nguyễn Du muốn gửi gắm khát vọng/ thông điệp gì? 

ĐỀ 9

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc ngữ liệu sau:

THUẬT HỨNG SỐ 24

Công danh đã được hợp về nhàn

Lành dữ âu chi thế ngợi khen

Ao cạn vớt bèo cây muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên nặng vạy then.

Bui một lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen

( Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976, tr. 418-419 ) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Trãi (1380 - 1442) hiệu Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) nhưng lớn lên cùng gia đình ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). 

Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế một di sản văn hóa quý giá, trong đó nổi bật là những sáng tác được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, thuộc nhiều lĩnh vực: quân sự, chính trị, lịch sử, địa lí, văn học. Tác phẩm chữ Hán gồm: Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Chí Linh sơn phú Băng Hồ di sự lục; sáng tác chữ Nôm có Quốc âm thi tập. Thơ văn Nguyễn Trãi phong phú đa dạng về đề tài, cảm hứng giàu giá trị tư tưởng và đậm tính trữ tình. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và những ưu tư về thế sự. Thơ văn Nguyễn Trãi xứng đáng là tập đại thành của năm thế kỷ văn học trung đại Việt Nam tính đến mốc thế kỷ XV. Ông là tác gia có đóng góp đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng nền văn học Đại Việt sau thời gian nước ta bị xâm lược nhà Minh đô hộ và thi hành chính sách hủy diệt văn hóa. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu biểu hiện của nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình trong bài thơ.  

Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra cách gieo vần của bài thơ.

Câu 3 (1 điểm). Hai câu đề, nhờ nguyên tắc đối cố định của thơ Đường mà nhiệm vụ của hai câu đề gợi ra sự việc rõ nét hơn, anh/chị hãy phân tích nghệ thuật đối đặc sắc và ý nghĩa sự việc đó. 

Câu 4 (1 điểm). Bài thơ Thuật hứng 24 thể hiện bản lĩnh phá luật tài tình cũng như sự sáng sáng tạo khi sử dụng hình ảnh thơ của Nguyễn Trãi trong thể thất ngôn bát cú. Anh/chị hãy chỉ ra và phân tích tác dụng của nó. 

Câu 5 (1 điểm). Theo anh/chị, giá trị đạo đức, văn hóa của dân tộc được thể hiện như thế nào trong bài thơ Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi? Giá trị đạo đức của văn bản đó có tiếp tục được xây dựng và phát triển trong thế kỷ XXI không? Vì sao? 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỀ 10

PHẦN I: ĐỌC HIỂU (4 điểm)

Đọc văn bản sau 

VỊNH KHOA THI HƯƠNG

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa Lọng cắm rợp trời: quân sứ đến Váy quét đất, mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ trông cảnh nước nhà.

(Trần Tế Xương Thơ chọn lọc,

NXB Văn học, 2014)

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Trần Tế Xương (1870 - 1907) ông sinh ra vào ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức 10 tháng 8 Âm lịch) tại số nhà 247 phố Hàng Nâu, thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. 

Cuộc đời ông gắn liền với thi cử, tổng tất cả là tám lần. Sau 3 lần hỏng thi, mãi đến lần thứ tư của khoa Giáp Ngọ (1894), ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm), sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903), Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng. 

Vịnh khoa thi hương còn có tên Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu vào ngày 27-12-1987. Đời Nguyễn, ở Bắc Kỳ có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Sau khi thực dân Pháp chiếm trường thi Hà Nội, các sĩ tử Hà Nội phải vào thi ở trường thi Nam Định. Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm): Bài thơ sử dụng cách gieo vần nào? 

Câu 2 (0,5 điểm): Nguyễn tắc đối cố định thể hiện trong bài thơ như thế nào? Nêu cách đối của bài thơ. 

Câu 3 (1 điểm): Hai câu đề giới thiệu thông tin gì về kỳ thi? Cảm xúc của tác giả như thế nào trước thông tin ấy và cách thể hiện có gì đặc biệt, sự đánh giá của nhà thơ về kỳ thi? 

Câu 4 (1 điểm) Phân tích nghệ thuật đối và mục đích của nhà thơ trong hai câu sau:  

Lọng cắm rợp trời: quân sứ đến

Váy quét đất, mụ đầm ra. 

 

Câu 5 (1 điểm): Cảnh tượng, con người nơi trường thi trong bài thơ dự báo điều gì về tương lai đất nước vào năm 1879? Hãy đối chiếu với lịch sử để đánh giá về dự báo của nhà thơ Trần Tế Xương. 

 

ĐỀ 11

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

 

ĐI ĐƯỜNG

Phiên âm 

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn đồ cố miện gian. 

Dịch nghĩa 

đi đường mới biết đường đi khó,

Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác; Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót, Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.

Dịch thơ 

Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

(Hồ Chí Minh, Nhật trong tù, NXB Trẻ, Hà Nội, 2020) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Tác phẩm ra đời trong thời gian Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943) tại Quảng Tây, Trung Quốc. Đi đường là bài thơ số 20 trong tập thơ Nhật trong tù của Bác, sáng tác nhằm ghi lại những lần Bác di chuyển giữa các nhà lao ở Quảng Tây. Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai?

Câu 2 (0,5 điểm). Bài thơ được làm theo luật gì? 

 

iểm). Theo quy định bố cục của thơ Đường luật dòng thơ Trùng

san chi ngoại hựu trùng san (hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác) có chức năng, vai trò như thế nào trong bài thơ ? 

Câu 4 (1 điểm). Cảm xúc của dòng thơ đầu và dòng thơ cuối khác nhau như thế nào? Hãy phân tích sự vận động mạch cảm xúc của bài thơ. 

Câu 5 (1 điểm). Bài thơ Tậu lộ giúp anh/chị nhận ra thông điệp gì? 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỀ 12

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản sau: 

 

HOA CAU

Đôi ta giàu lắm, bởi thêm nhau

cả nhân gian lại bắt đầu

Lại mới trời xanh, thanh nước biếc

Như vườn sáng sớm nở hoa cau

Hoa cau nứt mở tủa hoa ngà

Ánh sáng cùng hương lấp lánh hoa

Anh muốn tặng em hương thoảng ấy

cùng dịu mát với sâu xa

Tình ta như thể nhánh hương cau

Cuốn cả vườn theo sức nhiệm mầu

Chim chóc ríu ran dan díu hót

Đôi ta giàu lắm, bởi thêm nhau

Xuân Diệu, 8‐1974

(https://www.thivien.net/) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Ngô Xuân Diệu (1916 - 1985) là nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và nhà phê bình văn học người Việt Nam. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ XX. Được đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, Xuân Diệu nổi tiếng với tập Thơ thơ (1938), thể hiện một tiếng nói riêng biệt, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng Pháp.  

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình là những ai? 

Câu 2 (1 điểm). Bài thơ được làn theo thể thơ gì? 

iểm). Khi đôi ta có nhau, đất trời thay đổi như thế nào? Cảm xúc 

của nhân vật trữ tình được thể hiện độc đáo qua hình thức ngôn ngữ nào? 

Câu 4 (1 điểm). Hình ảnh nào trong bài thơ mang tính biểu trưng? Vai trò của hình ảnh đó trong việc diễn tả cảm xúc của thi sĩ. 

Câu 5 (1 điểm). Chỉ ra bút pháp lãng mạn của Xuân Diệu trong bài thơ và phân tích nét đặc sắc đó. Bài thơ thể hiện giá trị nhân sinh gì? 

ĐỀ 13

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản sau: 

 

HOA CAU

Đôi ta giàu lắm, bởi thêm nhau

cả nhân gian lại bắt đầu

Lại mới trời xanh, thanh nước biếc

Như vườn sáng sớm nở hoa cau

Hoa cau nứt mở tủa hoa ngà

Ánh sáng cùng hương lấp lánh hoa

Anh muốn tặng em hương thoảng ấy

cùng dịu mát với sâu xa

Tình ta như thể nhánh hương cau

Cuốn cả vườn theo sức nhiệm mầu

Chim chóc ríu ran dan díu hót

Đôi ta giàu lắm, bởi thêm nhau

Xuân Diệu, 8‐1974

(https://www.thivien.net/) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Ngô Xuân Diệu (1916 - 1985) là nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và nhà phê bình văn học người Việt Nam. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ XX. Được đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, Xuân Diệu nổi tiếng với tập Thơ thơ (1938), thể hiện một tiếng nói riêng biệt, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng Pháp.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Xác định đề tài của bài thơ.

Câu 2 (0,5 điểm). Cảm xúc/cảm hứng bao trùm bài thơ là gì? 

iểm). Hình ảnh biểu trưng “Hoa cau” được phát triển như thế 

nào trong từng khổ thơ. Từ đó nhận xét tứ thơ của Hoa cau. 

Câu 4 (1 điểm). “Thêm nhau” được hiểu như thế nào? Từ khi “thêm nhau” tình cảm của đôi ta tạo nên sự nhiệm mầu, giàu có như thế nào?  

Câu 5 (1 điểm). Nhận xét phương pháp sáng tác của Xuân Diệu. Từ bài thơ giúp anh/chị cảm nhận gì về đời sống, về mối quan hệ giữa con người với con người, với thiên nhiên. 

ĐỀ 14

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

 

MÀU THỜI GIAN

Sớm nay tiếng chim thanh

Trong vườn xanh

Dìu vương hương(1) ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi(2)

Ta lặng dâng nàng

Trời mây phảng phất nhuốm thời gian(3)

Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngát(4)

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh(5)

Tóc mây một món chiếc dao vàng(6)

Nghìn trùng e lệ phụng(7) quân vương

Trăm năm tình lìa không hận

Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng(8)

Duyên trăm năm dứt đoạn

Tình một thủơ còn vương

Hương thời gian thanh thanh Màu thời gian tím ngát

(Đoàn Phú Tứ - 1939) 

 (Trích theo Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

 

Đoàn Phú Tứ (1910 - 1989) là nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc các bút danh: Ngộ Không, Tam Tinh, Tuấn Đô,...  

Chú giải:

(1). Hãy để ý cái âm điệu vương vấn của mấy chữ này. 

(2). Thi nhân mượn sự tích người xưa để giữ vẻ kín đáo cho câu chuyện. Nàng Lý phu nhân, lúc gần mất không cho vua Hán Võ Đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy vua sẽ hết yêu.  

(3). Chữ “nhuốm” có vẻ nhẹ nhàng, không nặng nề như chữ “nhuộm”. Chữ “dâng” hơi kiểu cách.  

(4). Người đương yêu, cứ thấy màu thời gian tím ngát vì người riêng thích một thứ hoa tím và màu hoa lẫn với màu yêu.  

(5). Hương thời gian là hương thứ hoa kia mà cũng là hương yêu, một thứ tình yêu qua đã lâu rồi.  

(6). Dương Quý Phi mới vào cung, hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc, thương quá, lại vời nàng vào cung.  

(7). Chữ “phụng” rất kín đáo, chữ “dâng” sẽ quá xa vời, chữ “tặng” quá suồng sã.  

(8). Ý nói: thà phụ lòng mong mỏi của chàng, còn hơn gặp chàng trong lúc dung nhan tiều tụy.  

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Xác định đề tài, cảm hứng chủ đạo trong bài thơ. 

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định thể thơ, vần nhịp của bài thơ.

Câu 3 (1 điểm). Biểu tượng Tần Phi, tóc mây gợi nhắc đến điều gì trong tâm hồn thi sĩ? Từ đó nhận xét cấu tứ trong bài thơ. Câu 4 (1 điểm). Đọc lại khổ thơ sau 

 

Màu thời gian không xanh

 

Màu thời gian tím ngát

 

Hương thời gian không nồng

 

Hương thời gian thanh thanh 

 

Để cảm nhận, chuyển tải quan niệm thời gian, thi sĩ đã dùng những giác quan nào? Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ và vai trò của chúng trong khổ thơ.  

Câu 5 (1 điểm). Chỉ ra biểu hiện của phương pháp lãng mạn trong bài thơ. Bài thơ giúp em nhận thức như thế nào về thời gian, tình yêu? 

ĐỀ 15

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

 

MÀU THỜI GIAN

Sớm nay tiếng chim thanh

Trong vườn xanh

Dìu vương hương(1) ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi(2)

Ta lặng dâng nàng

Trời mây phảng phất nhuốm thời gian(3)

Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngát(4)

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh(5)

Tóc mây một món chiếc dao vàng(6)

Nghìn trùng e lệ phụng(7) quân vương

Trăm năm tình lìa không hận

Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng(8)

Duyên trăm năm dứt đoạn

Tình một thuở còn vương

Hương thời gian thanh thanh Màu thời gian tím ngát

(Đoàn Phú Tứ - 1939) 

(Trích theo Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh Hoài Chân) 

Đoàn Phú Tứ (1910 - 1989) là nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc các bút danh: Ngộ Không, Tam Tinh, Tuấn Đô,...  

Chú giải:

(1). Hãy để ý cái âm điệu vương vấn của mấy chữ này. 

(2). Thi nhân mượn sự tích người xưa để giữ vẻ kín đáo cho câu chuyện. Nàng Lý phu nhân, lúc gần mất không cho vua Hán Võ Đế xem mặt, sợ trông thấy nét mặt tiều tụy vua sẽ hết yêu.  

(3). Chữ “nhuốm” có vẻ nhẹ nhàng, không nặng nề như chữ “nhuộm”. Chữ “dâng” hơi kiểu cách.  

(4). Người đương yêu, cứ thấy màu thời gian tím ngát vì người riêng thích một thứ hoa tím và màu hoa lẫn với màu yêu.  

(5). Hương thời gian là hương thứ hoa kia mà cũng là hương yêu, một thứ tình yêu qua đã lâu rồi.  

(6). Dương Quý Phi mới vào cung, hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam một nơi. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc, thương quá, lại vời nàng vào cung.  

(7). Chữ “phụng” rất kín đáo, chữ “dâng” sẽ quá xa vời, chữ “tặng” quá suồng sã.  

(8). Ý nói: thà phụ lòng mong mỏi của chàng, còn hơn gặp chàng trong lúc dung nhan tiều tụy.  

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình là những ai?

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu tình cảm/cảm xúc thể hiện trong bài thơ.

Câu 3 (1 điểm). Chỉ ra hệ thống những yếu tố tượng trưng trong bài thơ. Nhận xét vai trò của yếu tố tượng trưng đối với việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình và cảm nhận của đọc giả?

Câu 4 (1 điểm). Đọc lại đoạn thơ cuối 

 

Duyên trăm năm dứt đoạn

 

Tình một thủa còn vương

 

Hương thời gian thanh thanh

 

Màu thời gian tím ngát 

 

Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong hai câu đầu. Hình ảnh Hương thời gian, Màu thời gian tượng trưng cho điều gì? 

 

5 Chỉ ra một số đặc điểm của phương pháp lãng mạn. Từ bài thơ trên, anh/chị có suy nghĩ gì về tình yêu, thời gian? 

ĐỀ 16

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản sau: 

 

TỰ NGUYỆN

Nếu chim, tôi sẽ loài bồ câu trắng

Nếu hoa, tôi sẽ một đóa hướng dương

Nếu mây, tôi sẽ một vầng mây ấm

người, tôi sẽ chết cho quê hương

chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm

Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền

hoa, tôi nở tình yêu ban sớm

Cùng muôn trái tim ngất ngây hoà bình

mây, theo làn gió tôi bay khắp trời

Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời

người, xin một lần khi nằm xuống

Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ

 (Trương Quốc Khánh – 1968) 

 (https://bcdcnt.net/) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Trương Quốc Khánh (10/10/1947 - 23/6/1999) là một nhạc sĩ, nhà báo, nhà biên kịch. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bài hát Tự nguyện được sáng tác trong phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe. Với ca khúc Tự nguyện, ông được anh chị em trong phong trào sinh viên học sinh gọi bằng cái tên trìu mến: “Nhạc sĩ Bồ Câu”. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra nhân vật trữ tình trong bài thơ. 

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định đề tài của bài thơ. 

 Bốn điều kiện “nếu là … “, “là người…” trong bốn câu đầu 

có tác dụng như thế nào trong đoạn thơ? 

Câu 4 (1 điểm). Tự nguyện có cấu tứ đặc biệt như thế nào? Phân tích tác dụng của cấu tứ đó. 

Câu 5 (1 điểm). Từ phong cách lãng mạn của nhà thơ anh/chị rút ra được quan điểm nhân sinh nào? Quan điểm nhân sinh đó đã tác động đến nhận thức anh/chị như thế nào?  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỀ 17

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản sau:

TỰ NGUYỆN

Nếu chim, tôi sẽ loài bồ câu trắng

Nếu hoa, tôi sẽ một đóa hướng dương

Nếu mây, tôi sẽ một vầng mây ấm

người, tôi sẽ chết cho quê hương

chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm

Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền

hoa, tôi nở tình yêu ban sớm

Cùng muôn trái tim ngất ngây hoà bình

mây, theo làn gió tôi bay khắp trời

Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời

người, xin một lần khi nằm xuống

Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ

 (Trương Quốc Khánh – 1968) 

 (https://bcdcnt.net/) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Trương Quốc Khánh (10/10/1947 - 23/6/1999) là một nhạc sĩ, nhà báo, nhà biên kịch. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bài hát Tự nguyện được sáng tác trong phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe. Với ca khúc Tự nguyện, ông được anh chị em trong phong trào sinh viên học sinh gọi bằng cái tên trìu mến: “Nhạc sĩ Bồ Câu”. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nêu chủ đề của bài thơ. 

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định đối tượng trữ tình của bài thơ. 

 Chỉ ra những hình ảnh tượng trưng trong bài thơ. Từ đó 

phân tích vai trò của yếu tố tượng trưng đối với việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình và cảm nhận của độc giả. 

Câu 4 (1 điểm). Từ “là” có vị trí vai trò gì trong các câu thơ, phân tích hiệu quả của từ “là” đó. Từ đó nhận xét về phong cách lãng mạn của nhà thơ. 

Câu 5 (1 điểm). Nhân vật trữ tình (tôi) suy ngẫm về những điều gì? Từ đó hãy nhận xét về tư tưởng của nhà thơ.

ĐỀ 18

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản:  

  

ÁO TRẮNG

Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong, 

Hôm xưa em đến, mắt như lòng 

Nở bừng ánh sáng. Em đi đến, 

Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng. 

 

Em đẹp bàn tay ngón ngón thon; Em duyên đôi nắng hoe tròn. 

Em lùa gió biếc vào trong tóc 

Thổi lại phòng anh cả núi non. Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời; Hồn em anh thở trong hơi. 

Nắng thơ dệt sáng trên áo, 

nhỏ mừng vui phất cửa ngoài. 

 

Đôi lứa thần tiên suốt một ngày. 

Em ban hạnh phúc chứa đầy tay. Dịu dàng áo trắng trong như suối Toả phất đôi hồn cánh mộng bay. 

(Áo trắng, Huy Cận, in trong Lửa thiêng, Nxb Hội Nhà Văn) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu đề tài của bài thơ Áo trắng  

Câu 2 (0,5 điểm). Chủ thể trữ tình và hình ảnh trung tâm trong bài thơ là ai? 

 Yếu tố tự sự trong bài thơ trữ tình dùng để kể sự việc gì? 

Câu 4 (1 điểm). Mô tả cấu tứ trong bài thơ Áo trắng? Nhận xét về cấu tứ đó. 

Câu 5 (1 điểm). Hình ảnh, biểu tượng nào là yếu tố tượng trưng trong bài thơ? Yếu tố tượng trưng đó đã tác động đến cảm xúc của nhân vật trữ tình và cảm nhận của độc giả như thế nào? 

 

19

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản sau:  

VIẾNG BẠN

Hôm qua còn theo anh

Đi ra đường quốc lộ

Hôm nay đã chặt cành

Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó

Súng nào nhằm trúng anh Khôn thiêng xin chỉ mặt Gọi tên ra anh!

Tên đế quốc?

Tên thực dân?

thằng thổ phỉ?

Hay đứa Việt gian?

Khóc anh không nước mắt

lòng đau như thắt

Gọi anh chửa thành lời

hàm răng dính chặt

đây không gỗ ván

Vùi anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tôi ngày phân tán

Mai mốt bên cửa rừng

Anh nghe súng nổ

chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung

(Hoàng Lộc – 1948) 

(https://www.thivien.net/) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Hoàng Lộc sinh tháng 2-1922 ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Hoàng Lộc vốn là học sinh Trường Bưởi (Hà Nội), sau lên chiến khu gia nhập bộ đội, làm phóng viên của Báo Xông Pha, tờ báo của Vệ quốc quân khu 12 (bộ đội Hà Nội) đóng ở Bắc Giang. Khi Chiến dịch Thu Đông năm 1947 diễn ra, Hoàng Lộc tình nguyện đi mặt trận, cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với những người lính chiến. Bài thơ “Viếng bạn” được viết trong dịp đó.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định thể thơ của bài thơ

Câu 2 (0,5 điểm). Nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình là những ai? 

Câu 3 (1 điểm). Tóm tắt những sự việc được kể trong bài thơ. Nhận xét về vai trò của yếu tố tự sự trong thơ. 

Câu 4 (1 điểm). Đọc lại khổ thơ 1 cho biết cụm từ “hôm qua”, “hôm nay” trong bài thơ diễn tả được điều gì? 

Hôm qua còn theo anh

Đi ra đường quốc lộ


Hôm nay đã chặt cành

Đắp cho người dưới mộ


Câu 5 (1 điểm). Chỉ ta một số biểu hiện của phong cách lãng mạn trong bài thơ. Bài thơ giúp anh/chị nhận thức như thế nào về tình bạn, về cuộc đời con người?

20

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản sau:  

VIẾNG BẠN

Hôm qua còn theo anh

Đi ra đường quốc lộ

Hôm nay đã chặt cành

Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó

Súng nào nhằm trúng anh Khôn thiêng xin chỉ mặt Gọi tên ra anh!

Tên đế quốc?

Tên thực dân?

thằng thổ phỉ?

Hay đứa Việt gian?

Khóc anh không nước mắt

lòng đau như thắt

Gọi anh chửa thành lời

hàm răng dính chặt

đây không gỗ ván

Vùi anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn Tặng tôi ngày phân tán

Mai mốt bên cửa rừng

Anh nghe súng nổ

chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung

(Hoàng Lộc – 1948) 

(https://www.thivien.net/) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Hoàng Lộc sinh tháng 2-1922 ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Hoàng Lộc vốn là học sinh Trường Bưởi (Hà Nội), sau lên chiến khu gia nhập bộ đội, làm phóng viên của báo Xông pha, tờ báo của Vệ quốc quân khu 12 (bộ đội Hà Nội) đóng ở Bắc Giang. Khi Chiến dịch Thu Đông năm 1947 diễn ra, Hoàng Lộc tình nguyện đi mặt trận, cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với những người lính chiến. Bài thơ “Viếng bạn” được viết trong dịp đó.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Xác định đề tài của bài thơ.

Câu 2 (0,5 điểm). Dấu hiệu để nhận biết yếu tố tự sự trong bài thơ. 

Câu 3 (1 điểm). Trong hai câu thơ: Hôm nay chặt cành cây khô/Đắp cho người dưới mộ diễn tả cảm xúc gì? Từ ngữ, hình ảnh nào gợi lên điều đó?

Câu 4 (1 điểm). Chỉ ta một số biểu hiện của phong cách lãng mạn trong bài thơ. Phân tích một biểu hiện mà anh/chị cho là đặc sắc. 

Câu 5 (1 điểm). Bài thơ Viếng bạn đã thể hiện những giá trị văn hóa nhân sinh gì? Giá trị đó làm thay đổi nhận thức nào trong anh/chị?

21

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản:

EM ĐẾN NHỮNG NƠI ANH QUA

Em đến những nơi anh qua

Nên gặp anh em chẳng gặp

Thầm nhớ dấu chân trên đất

Dẫu đường đầy vết đạn bom

Em dừng chân bên cửa sông

Nghe gió xa về bát ngát

Dáng anh như một cánh buồm

Vượt tầm thuỷ lôi phía trước

Chiếc cầu ngang sông em bước

Nhớ chuyến phà đêm anh qua

Giữa bom đạn giặc như mưa

Quyết liệt giành từng sải nước

Bát cơm ăn trên mặt đất

Nghĩ đến bát cơm trộn cát

Nắng gió trải khắp đồi cây

Thương căn hầm anh ngột ngạt

Tháng tám về cùng biển động

Bão cuồn cuộn từ ngoài khơi

Lòng đất rùng rùng bom giặc Ngủ yên sao được anh ơi!

Tháng năm rát mặt gió Lào

Hoa héo trước khi hoa nở

Trận địa anh bên Trường Sơn

Đứng vững giữa vòng toạ độ

Bãi dương trải bọt na pan

Xen lẫn bốn bề cỏ mọc

Pháo ơi giờ chuyển về đâu Thương anh xém ngang mái tóc!

Thời gian không gian cách xa

Nhớ đến anh em chỉ nhớ Nét mặt vừa quen vừa lạ

Trẻ như mặt những anh hùng.

 (Xuân Quỳnh, 11/1969) 

(https://www.thivien.net/) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Xuân Quỳnh (1942 - 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Sáng tác của bà bao gồm cả thơ và văn xuôi, viết về nhiều đề tài khác nhau, trong đó tình yêu, hạnh phúc gia đình và trẻ em là các đề tài chiếm vị trí nổi bật. Thơ Xuân Quỳnh giàu yếu tố tự thuật. Bên cạnh việc bộc lộ niềm khát khao được yêu thương chia sẻ và ý thức chắt chiu, gìn giữ hạnh phúc đang có, thơ bà còn chứa đựng những dự cảm đầy lo âu về cái mong manh của đời sống, của tình yêu. Xuân Quỳnh được nhìn nhận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Tác phẩm chính của bà: Gió Lào cát trắng (thơ, 1974), Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978), Sân ga chiều em đi (thơ 1994), Tự hát (thơ 1984), Hoa cỏ may (thơ 1989), Bầu trời trong quả trứng (thơ văn viết cho thiếu nhi, 1982), Bến tàu trong thành phố (truyện viết cho thiếu nhi, 1984)… 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm): Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai? 

Câu 2 (0,5 điểm): Nêu cảm xúc/cảm hứng bao trùm của bài thơ 

Câu 3 (1 điểm): Xác định câu chuyện (sự việc) của bài thơ. Từ đó, nhận xét về vai trò của yếu tố tự sự; về mối quan hệ với phong cách lãng mạn.

Câu 4 (1 điểm): Cụm từ “tháng tám”, “tháng năm” diễn tả được điều gì? Từ chiều dài của thời gian, hình ảnh anh cùng trận địa hiện lên như thế nào?

Câu 5 (1 điểm): Bài thơ Em đến những nơi anh qua đã giúp anh/chị hiểu được những giá trị văn hóa nhân sinh gì? Giá trị đó đã tác động tới nhận thức của anh/ chị như thế nào? 

 

ĐỀ 22

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc văn bản:

EM ĐẾN NHỮNG NƠI ANH QUA

Em đến những nơi anh qua

Nên gặp anh em chẳng gặp

Thầm nhớ dấu chân trên đất

Dẫu đường đầy vết đạn bom

Em dừng chân bên cửa sông

Nghe gió xa về bát ngát

Dáng anh như một cánh buồm

Vượt tầm thuỷ lôi phía trước

Chiếc cầu ngang sông em bước

Nhớ chuyến phà đêm anh qua Giữa bom đạn giặc như mưa

Quyết liệt giành từng sải nước

Bát cơm ăn trên mặt đất

Nghĩ đến bát cơm trộn cát

Nắng gió trải khắp đồi cây

Thương căn hầm anh ngột ngạt

Tháng tám về cùng biển động

Bão cuồn cuộn từ ngoài khơi Lòng đất rùng rùng bom giặc Ngủ yên sao được anh ơi!

Tháng năm rát mặt gió Lào

Hoa héo trước khi hoa nở

Trận địa anh bên Trường Sơn

Đứng vững giữa vòng toạ độ

Bãi dương trải bọt na pan

Xen lẫn bốn bề cỏ mọc

Pháo ơi giờ chuyển về đâu

Thương anh xém ngang mái tóc!

Thời gian không gian cách xa

Nhớ đến anh em chỉ nhớ Nét mặt vừa quen vừa lạ

Trẻ như mặt những anh hùng.

 (Xuân Quỳnh, 11/1969) 

(https://www.thivien.net/) 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Xuân Quỳnh (1942 - 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Sáng tác của bà bao gồm cả thơ và văn xuôi, viết về nhiều đề tài khác nhau, trong đó tình yêu, hạnh phúc gia đình và trẻ em là các đề tài chiếm vị trí nổi bật. Thơ Xuân Quỳnh giàu yếu tố tự thuật. Bên cạnh việc bộc lộ niềm khát khao được yêu thương chia sẻ và ý thức chắt chiu, gìn giữ hạnh phúc đang có, thơ bà còn chứa đựng những dự cảm đầy lo âu về cái mong manh của đời sống, của tình yêu. Xuân Quỳnh được nhìn nhận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Tác phẩm chính của bà: Gió Lào cát trắng (thơ, 1974), Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978, Sân ga chiều em đi (thơ 1994), Tự hát (thơ, 1984), Hoa cỏ may (thơ 1989), Bầu trời trong quả trứng (thơ văn viết cho thiếu nhi, 1982), Bến tàu trong thành phố (truyện viết cho thiếu nhi, 1984)… 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm): Đối tượng trữ tình trong bài thơ là những ai? 

Câu 2 (0,5 điểm): Chỉ ra những dấu hiệu để nhận biết yếu tố tự sự trong bài thơ? 

Câu 3 (1,0 điểm): Đọc lại 2 khổ thơ và chỉ ra yếu tố trần thuật được nhắc đến qua từ ngữ/hình ảnh nào? Nêu vai trò của các yêu tố trần thuật đó đối với bài thơ. 

Em dừng chân bên cửa sông 

Nghe gió xa về bát ngát 

Dáng anh như một cánh buồm 

Vượt tầm thuỷ lôi phía trước 

   

Chiếc cầu ngang sông em bước 

Nhớ chuyến phà đêm anh qua 

Giữa bom đạn giặc như mưa 

Quyết liệt giành từng sải nước 

 

Câu 4 (1,0 điểm): Chỉ ra một số biểu hiện của phong cách lãng mạn trong bài thơ. Phân tích một số biểu hiện mà anh/chị cho là đặc sắc. 

Câu 5 (1,0 điểm): Bài thơ Em đến những nơi anh qua đã giúp anh/chị hiểu được những giá trị văn hóa nhân sinh gì? Giá trị đó đã tác động tới nhận thức của anh/ chị như thế nào? 

 

23

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

Tháng ba... khi các màu sắc trong khu vườn đã quá độ mãn khai của chúng vào tiết xuân, lùi lại dần trong cảm giác quen mắt, thì bắt đầu tháng ba, hoa lê nở. Năm ấy tôi về muộn, sau một chuyến đi dài [...] Tôi về Huế, lên An Hiên [...]. Uống trà xong, tôi đi dạo quanh vườn. Vườn bà Lan Hữu bao giờ cũng sạch, không hề có một mảnh giấy vương vãi, chỉ cỏ lơ thơ và lá khô. Đã quá giữa xuân: cam, bưởi, thanh trà đã già mùa hoa, tỏa lan khắp vườn một mùi hương rộng rãi, sung thiệm, sâu vào tận phổi và hình như còn bay xa qua những khu vườn khác. Lâu nay vì xem chúng là cây ăn quả, tôi vẫn nghe hương thơm của chúng như là một cái gì ngẫu nhiên. Bây giờ tôi mới lưu ý tới điều này, rằng cái họ cam, chanh, bưởi này, trước khi cho quả, chúng đã mang đến cho con người một mùa hoa thực sự của riêng chúng, với đầy đủ tư cách là hoa, cũng giống như hoa hồng vậy. 

Tôi đi vòng lại góc sân, nơi đó có cây lê đang nở hoa. Trên những cành thẳng có những chấm mắt nhỏ gồ ghề, dáng đối trúc, mấy chùm hoa trắng điểm lên ít lá non, xanh mơn mởn, bóng loáng. Cành to khỏe, hoa chỉ điểm năm ba chùm, nhưng người ta không cảm thấy là ít, hình như hoa lê sợ sự thừa thãi. Dưới trời quang đãng của tiết xuân muộn, trong nắng trong gió, những chùm hoa rung động nhẹ trước mắt tôi giống như bướm trắng, nhưng là những cánh bướm bay đến từ một phương trời nào khác. Bà Lan Hữu đang đứng bên thềm loay hoay buộc mấy cành hoa tường vi lên giàn. Bà ngẩng lên, nói với tôi: “Hoa lê nở dưới trăng càng bộc lộ hết cái thần của nó. Người xưa khen hoa này là biết tự cam ở nơi tịch mịch”. 

Tôi ngồi bệt xuống thềm, duỗi chân, nhìn lan man ra vườn. Vườn măng cụt đang nảy lộc chi chít, trên ngọn mỗi chùm lá đều chĩa ra một cặp lá non thật nhọn hình cánh chim, tưởng chừng có ngàn vạn con chim anh vũ đang giấu mình dưới lá, đôi cánh biếc của chúng xòe ra ở đầu cành. Cảnh tượng trước mắt làm tôi xúc động: nơi trang thơ của Nguyễn Du đã đọc, tôi nhớ lại một ngày thanh minh trời đẹp như thế này cành hoa trắng kia đã làm chứng cho một tình yêu sáng lạn, cũng là làm chứng cho dự phóng nhân đạo của tâm hồn nhà thơ trước cuộc đời. Tôi hài lòng đã trở về. Như vậy thôi, tôi hiểu, ở thành phố này, sự yên tĩnh cũng giống như Lòng Mẹ, không có gì đồng nghĩa với sự yên nghỉ.  

Với bà Lan Hữu, vườn An Hiên không chỉ là nơi ở, mà còn là một cuốn tự truyện viết bằng nét, chữ của cây cỏ. Cây cỏ đã nói với bà điều gì không ai biết, nhưng không phải là chuyện quên đời. Bà chăm chút khu vườn với tất cả ý thức văn hóa, giống như nghề dạy học mà bà đã phải từ bỏ, và chắc hẳn đã nhận lại từ cây cối những lời ngụ ngôn thầm lặng. 

  (Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường,  Tạp chí Sông Hương, số 3 (T.10 - 1983)) 

 

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút ký, tùy bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,… Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định đối tượng chính và mục đích lựa chọn đối tượng của đoạn văn bản trên. 

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu nội dung chính của đoạn trích trên. 

Câu 3 (1 điểm). Chỉ ra yếu tố tự sự, yếu tố trữ tình và phân tích tác dụng của sự kết hợp đó. 

Câu 4 (1 điểm). Dưới góc nhìn thơ ca, hoa lê liên tưởng đến điều gì? Đằng sau sự liên tưởng ấy, nhà văn gửi đến độc giả sự suy ngẫm, phát hiện gì về thiên nhiên xứ Huế. 

Câu 5 (1 điểm). Đoạn trích trên để lại trong anh, chị những ấn tượng, cảm xúc nào sâu sắc nhất về thiên nhiên, con người xứ Huế? Từ đó, anh, chị có thêm bài học gì về cách cảm nhận, quan sát con người, cuộc sống xung quanh? 

24

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:

... Cũng phải mặc tấm áo dài trên thân, thong thả thì buông chùng, vội vã thì thắt vạt trước, mà hối hả hơn thì thắt vạt sau lưng mà chạy gằn cho tiện. Nắng hay mưa cũng vậy. Đầu năm hay sắp Tết cũng thế.  

Những năm ba mươi của thế kỷ này, tấm áo dài được cách điệu đi, không thắt vạt, không đổi vai mà thành áo tân thời. Chữ tân thời đã mang một nghĩa mới, cũng như chữ cải lương trong hát cải lương.  

Áo nhung, áo gấm, áo mình khô hoa ướt, áo lơ-muya, áo cổ thấp rồi cổ cao, tay thụng hay tay bó, tay dài hay tay lửng... đã nhiều thay đổi, nhiều “mốt” tuỳ thích. Riêng chỉ hai cái tà như hai cánh bướm, như hai dải liễu bay, như hai lá thư tình, như hai nỗi ám ảnh tâm hồn nam giới, như linh hồn của chiếc áo và của người mặc... là vẫn được trân trọng giữ nguyên. Nó vẫn giữ chiều dài gần sát gót để có đà tung bay, có khi nhấp nhô như sóng lượn, để có đà vẫy gọi những con mắt dõi theo.  

Áo dài nhung đỏ đi với kiềng vàng, áo dài nhung đen có chuỗi hạt trai sáng lấp lánh, áo dài trắng có mái tóc đen huyền thả buông lửng sau lưng áo, áo tím hàng Vân có chiếc nón bài thơ ngà trắng... đó là sự tuyệt đỉnh hài hoà hay lộng lẫy khôn cùng, cũng tựa như tấm áo Đồng Lầm có thắt lưng hồ thủy hay hoa đào cũng vậy [...].  

Những ai nay còn sót lại của thế hệ nữ sinh trường Đồng Khánh Trưng Vương, chiều hồ Gươm khoan thai nhịp bước, cắp cặp trước ngực, tóc đung đưa sau lưng, còn hai tà áo dài cứ như trêu cợt, như đùa nô, như vô tình mà nghi ngờ, mà nhắn nhủ, mà xa xôi... với bao màu sắc từ đậm đến nhạt, như cung bậc cây đàn từ thấp đến cao, gần xa buông bắt.  

Tà áo dài gần chấm gót những ngày ấy đủ sức chuyện trò cùng gió. Mềm mại, uyển chuyển, run rẩy, lung linh... hình như đã lan truyền sang cả sóng hồ nên hồ cứ lăn tăn, lan truyền cả vào tầng lá nên cây lá cứ rì rầm, lay động. 

(Theo Băng Sơn, Bài thơ áo dài, trích trong Thú ăn chơi người Nội, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009, Tr.196-200)  

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

Nhà văn Băng Sơn (1932 2010): Ông sống, học tập và làm việc ở Hà Nội từ năm 1947, sự nghiệp văn chương của ông khởi nghiệp ở đất Hà thành từ năm 17 tuổi với bài thơ đăng báo đầu tiên. Ông là một nhà văn chuyên viết về Hà Nội và là tác giả của nhiều tập tùy bút được nhiều người yêu thích. Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nêu nội dung chính của đoạn trích.  

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu cảm hứng chủ đạo của nhân vật trữ tình về chiếc áo dài trong đoạn trích.

Câu 3 (1 điểm). Sự kết hợp của yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình có vai trò như thế nào trong việc thể hiện vẻ đẹp chiếc áo dài gắn với những cảm xúc, suy ngẫm của tác giả? 

Câu 4 (1 điểm). Từ thông tin về đặc điểm thực của áo dài gần sát gót, nhà văn Băng Sơn đã cảm nhận vẻ đẹp đó như thế nào trong đoạn trích. Cảm nhận đó được thể hiện qua những biện pháp tu từ gì? 

Câu 5 (1 điểm). Anh/chị hiểu gì về nhận định của tác giả “Tà áo dài gần chấm gót những ngày ấy đủ sức chuyện trò cùng gió. Mềm mại, uyển chuyển, run rẩy, lung linh... hình như đã lan truyền sang cả sóng hồ nên hồ cứ lăn tăn, lan truyền cả vào tầng nên cây cứ rầm, lay động.” 

Từ nhận định đó anh/chị thấy có ý nghĩa với cuộc sống hiện đại ngày nay không? 

25

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

Để thay đổi cách suy nghĩ, chúng ta cần trải qua một quá trình gồm nhiều bước liên tục. Bước đầu tiên sẵn sàng từ bỏ những kiểu suy nghĩ quen thuộc. Đây bước từng khiến rất nhiều người trượt chân ngã sóng soài. Thật ra, khá nhiều người trong chúng ta không nhận ra suy nghĩ của mình tiêu cực mặc kệ nó. Nhưng một khi bạn bắt đầu nhận thấy lối suy nghĩ nào đó không còn phù hợp với mình nữa thì bước tiến quan trọng cần thiết sẵn sàng thay đổi nó. Bước thứ hai hình dung bạn đang sống trong một hoàn cảnh mới, thực hiện những vai trò mới, thể nơi làm việc, nhà hay giữa bạn bè. Hãy nhìn vào bản thân đang vượt qua mọi thách thức từng gây trở ngại cho bạn trong quá khứ. Hãy chiêm ngưỡng bản thân theo cách bạn muốn! Hãy tưởng tượng hình ảnh tương lai của bạn càng chi tiết càng tốt.

(Theo Karen Casey, Khi ta thay đổi thế giới sẽ đổi thay 

NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2020) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra câu chứa luận điểm và nêu mục đích của luận điểm. 

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu nội dung chính của đoạn văn bản trên. 

Câu 3 (1 điểm). Nêu phương thức biểu đạt chính và tác dụng của phương thức biểu đạt đó. 

Câu 4 (1 điểm). Nhận xét về cách tác giả kết thúc luận điểm. 

 Hãy nhìn vào bản thân đang vượt qua mọi thách thức từng gây trở ngại cho bạn trong quá khứ. Hãy chiêm ngưỡng bản thân theo cách bạn muốn! Hãy tưởng tượng hình ảnh tương lai của bạn càng chi tiết càng tốt.

Câu 5 (1 điểm). Đoạn văn bản trên giúp em nhận thức thêm những điều gì? Điều đó có khiến em thay đổi quan niệm, thói quen sống nào không?

ĐỀ 26

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

GIÁ TRỊ CỦA BẠN

Mọi người thường xu hướng nghĩ rằng, phải tạo dựng được công trạng hay thành tựu nổi bật đáng để thế gian công nhận thì mới được coi sự tồn tại ý nghĩa. Nhưng không phải thế. [...] Giá trị của bản thân do chúng ta tự ban tặng cho mình. Chỉ khi nào bạn thể thừa nhận sự tôn quý của bản thân, thì bạn mới thể tôn trọng chính mình, như thế mới thể sống tiếp như một người trưởng thành. Tại sao bản thân ta lại quan trọng? Thậm chí ngay cả trong cảnh ngộ bi đát, khi chưa tạo dựng được trong tay, tại sao tôi thể tự thuyết phục bản thân rằng mình vẫn giá trị? Theo tôi, ba do sau đây:

Thứ nhất, đó những người bạn yêu thương, những người yêu thương bạn.

Thứ hai, đó bạn vẫn thể khiến cho thế giới này tốt đẹp hơn.

Góp phần làm cho thế gian này tốt đẹp hơn một chút, làm cho ai đó hạnh phúc hơn một chút việc làm thật ấm áp. Cũng không phải việc to tát như bảo vệ hòa bình thế giới. Mỗi lần giúp con trai hoàn thành một pháo đài bằng bộ ghép hình logo, tôi lại cảm thấy cùng vui sướng. Tôi đã tạo ra một điều đó tốt đẹp. Trồng một chậu hoa nhỏ, quét dọn con đường trước nhà, những việc đó đã làm đẹp cho một góc của trái đất này. [...] Chỉ cần tận tụy với công việc được giao, với vai trò mình đảm nhiệm, như thế thôi đã đang góp phần xây dựng thế giới này rồi. Xin đơn cử một dụ, tôi không phải người đặc biệt cho lắm, nhưng với vai trò một người thầy, nếu tôi cố gắng hết sức đem kiến thức mình truyền thụ cho học trò, giúp các em thể phát triển bản thân... thì những học sinh đó chắc sẽ trở thành những người tốt hơn, chỉ một chút, thế giới cũng thế tốt đẹp hơn đôi phần. đâu chỉ nhà giáo mới làm được như thế. Người làm công ty thương mại xuất khẩu những sản phẩm tốt, người mở tiệm bánh làm những chiếc bánh ngon, chỉ cần không phải trộm cắp hay lừa đảo, chỉ cần hết lòng làm tốt việc của mình thế giới đã dần trở nên tươi đẹp hơn. [...] Bởi thế, cuộc sống của bạn rất giá trị, không được nhiều người biết đến,

 

chừng nào bạn còn thể làm cho một người nào đó trên thế gian cảm thấy hạnh phúc hơn chỉ một chút.

Thứ ba, đó bởi bạn đang dần đổi mới.

(Theo Rando Kim, Trưởng thành sau ngàn lần tranh đấu, NXB Hà Nội, 

2020, tr.82-89) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Thao tác lập luận chính của văn bản. 

Câu 2 (0,5 điểm). Đọc luận điểm 2, tìm câu chứa luận điểm. 

Câu 3 (1 điểm). Chỉ ra những lí lẽ, bằng chứng tác giả đưa ra trong luận điểm 2. Nhận xét về mối quan hệ của lí lẽ, bằng chứng với luận điểm. 

Câu 4 (1 điểm). Chỉ ra những yếu tố bổ trợ và nêu vai trò của chúng. 

Câu 5 (1 điểm). Viết luận điểm 2, tác giả nhằm mục đích, mong muốn gì?  

ĐỀ 27

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  GIÁ TRỊ CỦA BẠN

Thứ ba, đó bởi bạn đang dần đổi mới.

Tất cả chúng ta, mỗi người đều có một hình ảnh hoàn mỹ nhất. Để tiến dần đến hình ảnh đó, con người đang nỗ lực đấu tranh với những giới hạn đặt ra với bản thân. “Hãy nỗ lực để trở thành người tốt đẹp nhất mà mình có thể”. Bởi thế, dù cho chẳng thể nào tạo ra những thay đổi to lớn làm xoay chuyển thế giới, cuộc sống của bạn vẫn có giá trị. Chỉ cần bạn luôn hướng tới “một cái tôi” mới mẻ hơn. 

Cuộc đời bạn rất có giá trị. Có thể trao đi yêu thương, và nhận lại nhiều tình cảm yêu mến, như vậy bạn là người có giá trị. Trên con đường hoàn thành sứ mệnh của mình, bạn lại có thể giúp đỡ người khác và làm thế giới tốt đẹp hơn, như vậy bạn là người có giá trị. Để bản thân mình hoàn thiện hơn, bạn học hỏi và trải nghiệm từng chút một, như vậy bạn là người có giá trị. Quan trọng là bắt đầu từ ngay bây giờ. 

(Theo Rando Kim, Trưởng thành sau ngàn lần tranh đấu, NXB Hà Nội, 

2020, tr.82-89) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu câu chứa luận điểm của đoạn văn trên 

Câu 2 (0,5 điểm). Các lí lẽ để chứng minh cho luận điểm được tác giả trình bày như thế nào? 

Câu 3 (1 điểm). Đọc lại đoạn số 2, phân tích vai trò của từng câu trong mạch triển khai của toàn văn bản.

Cuộc đời bạn rất giá trị. thể trao đi yêu thương, nhận lại nhiều tình cảm yêu mến, như vậy bạn người giá trị. Trên con đường hoàn thành sứ mệnh của mình, bạn lại thể giúp đỡ người khác làm thế giới tốt đẹp hơn, như vậy bạn người giá trị. Để bản thân mình hoàn thiện hơn, bạn học hỏi trải nghiệm từng chút một, như vậy bạn người giá trị. Quan trọng bắt đầu từ ngay bây giờ.

Câu 4 (1 điểm). Thái độ của người viết trong đoạn văn bản trên.

Câu 5 (1 điểm). Câu kết Quan trọng bắt đầu từ ngay bây giờ có khả năng tác động đến người đọc như thế nào? 

ĐỀ 28

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

DẪU SAO CŨNG ĐỪNG SỢ HÃI CON NGƯỜI

Điều khác biệt giữa trường học cuộc đời gì? trường, bạn được dạy một bài học sau đó được làm bài kiểm tra. Trong cuộc đời, bạn được cho một bài kiểm tra sẽ dạy bạn một bài học” (Tom Bodett)

(1) Em mười bảy tuổi, ngoan hiền trong sáng. Đi học rồi về nhà. Không dùng điện thoại di động. Nhưng bỗng dưng em phải trải qua một tuần ác mộng: cửa sổ Offline YM đầy ắp những lời cợt nhả, bạn cùng lớp xầm bàn tán, điện thoại nhà reo liên tục lúc mười một giờ rưỡi đêm những giọng đàn ông xin gặp em. Khóc nức nở, em không biết chuyện xảy ra với mình. Ba mẹ em tức điên, định đổi số điện thoại. Nhờ sự giúp đỡ của ông anh họ, cả nhà phát hiện ai đó đã đưa tên, nick cả số điện thoại của em lên một diễn đàn với lời mời gọi ỡm ờ.

Không dễ khẳng định nhưng em lờ mờ đoán ra, thể đó một người xưa đã từng bạn.

Rồi tất cả trôi qua, nhưng em đã khác. Em không cười nữa, em thu mình lại, sợ gặp gỡ, sợ kết bạn, sợ tổn thương. Em khắc lên bàn học của mình một câu khiến tôi giật mình khi đọc được: “Tôi sợ hãi con người!”.

Tôi biết em sợ hãi thật sự, bởi vào tuổi mười bảy, những hiềm khích sự đố kị không dừng lại việc “nghỉ chơi” hay những lời xầm “tin‐hay‐không‐tùybạn” nữa, đột nhiên sắc nhọn, làm rỉ máu trái tim, tổn thương danh dự như vậy đó. Em chưa thể chấp nhận nó, em không thể tin... Thất vọng đầy tổn thương, em tự hỏi: “Mình đã làm sai chăng?”

 (Theo Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm hữu hạn,  

Nxb. Hội Nhà văn, 2011) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Xác định luận đề của đoạn trích trên. 

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể và điểm nhìn trần thuật của đoạn trích. 

Câu 3 (1 điểm). Sự việc bị chơi xấu trên mạng đã gây tổn thương nghiêm trọng tới đời sống tinh thần của cô bé 17 tuổi như thế nào? Những tổn thương đó là biểu hiện của suy nghĩ gì? 

Câu 4 (1 điểm). Tóm tắt câu chuyện được tác giả kể trong bài văn nghị luận xã hội. Câu chuyện đó có vai trò như thế nào trong văn bản? 

Câu 5 (1 điểm). Trong đoạn trích trên, tác giả đã đề cập tới những hiện thực nào trong cuộc sống? Thế hệ trẻ cần ứng xử thế nào trước thực tế đó? 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

29

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

DẪU SAO CŨNG ĐỪNG SỢ HÃI CON NGƯỜI

Hãy tin tôi, bạn nhỏ, rằng không ai cuộc đời tròn trịa đến mức chưa từng bị chơi xấu. “bị chơi xấu” không nghĩa ta đã làm sai. một câu nói tôi thấy rất thú: “Mong đợi cuộc đời đối xử tốt với bạn bạn một người tốt cũng giống như mong rằng con đực đang nổi giận sẽ không tấn công bạn chỉ bạn người ăn chay”. Ta thức dậy mỗi ngày, bước ra khỏi nhà đối diện với cả thế gian: người thân quen, kẻ xa lạ, người sẽ trở nên gần gũi, người ta vẫn nhớ người ta đã lãng quên... “Người tốt, kẻ xấu tên lại” như tựa đề một bộ phim cao bồi tôi rất thích. Ai dám chắc mình đủ tỉnh táo để phân biệt? lẽ đã đến lúc em nhận ra rằng “người xấu” không chỉ trên phim. Chưa kể xấu tốt đôi khi còn tuỳ thuộc vào góc nhìn. mọi thứ thể bắt đầu chỉ sự khác biệt. Em bao giờ nhận ra rằng bạn những điểm khác mình không?

Mười bảy tuổi. lẽ đã đến lúc em phải quan sát, lắng nghe, suy nghĩ, tìm hiểu về những người sống quanh em. Danh ngôn câu “con người một sinh vật viễn thị”. Nghĩa hãy lùi lại thì ta sẽ nhìn hơn xa hơn. Ta ai? Bạn ai? Tìm hiểu về bạn không phải nghi kỵ, hay mất niềm tin. Tìm hiểu về người khác để nhìn họ bằng con mắt, nói như Lâm Ngữ Đường, “cận nhân tình” hơn. Để ứng xử với họ không phải như bạn (rất chung chung) như Phương, như Trâm, như Huy, như Ngọc... Tìm hiểu, để trách nhiệm với niềm tin của mình. Mỗi con người một giá trị, hãy tìm giá trị đó. Mọi con người đều ưu điểm khuyết điểm, hãy tìm ra cả hai. Để nhìn nhận đúng thì đừng bị lệ thuộc vào thành kiến, cũng đừng bị che mắt bởi hào quang.

Mười bảy tuổi. Đã đến lúc em hiểu rằng trắng đen hai mặt của đời. Sẽ khi em đứng giữa, nghe một người nói trắng một người nói đen. Cả hai đều vẻ thuyết phục. Em sẽ phải người tự quyết định tin ai, tin cái gì. Không ai giúp em cả, ngoài bản thân mình. Cuộc đời chúng ta hệ quả của những lựa chọn. Tin việc dễ. Hiểu việc khó. Hiểu trước khi tin hay tin không cần hiểu: đó không phải trò xúc xắc hay đơn giản sự đảo lộn trật tự từ ngữ. Đó điều sẽ tác động mạnh mẽ đến sự thành bại của em trên đường đời: trong sự nghiệp, tình yêu hay quan hệ con người. Không ai thành công một mình, cũng không ai thất bại một mình. Kể cả ngôi sao sáng nhất em nhìn thấy cũng không thể tỏa sáng một cách đơn độc. Việc lựa chọn người đồng hành yếu tố tiên quyết để thành công, hoặc quyết định rằng thành công sẽ lâu dài hay ngắn ngủi.

 (Theo Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm hữu hạn,  

Nxb. Hội Nhà văn, 2011) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Xác định luận đề của đoạn trích trên. 

Câu 2 (0,5 điểm). Để làm sáng tỏ cho luận đề thì tác giả đưa ra luận điểm cụ thể như thế nào? Diễn đạt nội dung đó trong một câu ngắn gọn. 

Câu 3 (1 điểm). Để thuyết phục cho luận điểm trên tác giả đã có những lí lẽ xác đáng nhất trong luận điểm này như thế nào? Chúng làm rõ điều gì? 

Câu 4 (1 điểm). Xác định mục đích của đoạn văn bản và thái độ của tác giả đối với các bạn trẻ như thế nào? Đó có phải là yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận không? 

Câu 5 (1 điểm). Em đồng ý với những lí lẽ phân tích sau đây không? Em có thêm nhận thức gì từ những phân tích trên? như Phương, như Trâm, như Huy, như Ngọc... có phải những người cụ thể không, họ là ai? 

Tìm hiểu về bạn không phải nghi kỵ, hay mất niềm tin. Tìm hiểu về người khác để nhìn họ bằng con mắt, nói như Lâm Ngữ Đường, “cận nhân tình” hơn. Để ứng xử với họ không phải như bạn (rất chung chung) như Phương, như Trâm, như Huy, như Ngọc...

 

30

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

Xây dựng biểu tượng về cái đẹp bằng thủ pháp xây dựng biểu tượng phản cái đẹp: Nhìn một cách tổng thể, văn học Thái nói chung và Xống chụ xon xao nói riêng là những tác phẩm văn học vẫn phát triển theo đúng quy luật phát triển của văn học. Nó vẫn tập trung diễn tả và đề cao các giá trị thẩm mỹ như văn học các dân tộc khác, và có những biểu hiện xu hướng này một cách rõ ràng. Trước hết, đó là cách xây dựng nhân vật thành biểu tượng điển hình cho nhân cách con người. Nếu lấy nhân vật Anh Yêu và Em Yêu làm nhân vật trung tâm thì Xống chụ xon xao có ba hệ thống nhân vật, tạm gọi là hệ thống nhân vật đọa đày; hệ thống nhân vật bị đọa đày và hệ thống nhân vật trung gian. Phân định như vậy bởi trong tác phẩm có những nhân vật chuyên đọa đày người khác là bố mẹ Em Yêu, người chồng thứ nhất của Em Yêu. Những nhân vật chuyên bị đọa đày là Anh Yêu, Em Yêu. Nhân vật trung gian là mẹ Anh Yêu, người chồng thứ hai của Em Yêu và người vợ chính thức của Anh Yêu.  

Hệ thống nhân vật đọa đày có sự phát triển theo hướng nhân vật bị tha hóa mãnh liệt. Khi họ mới sinh ra được Em Yêu, họ cũng yêu chiều con gái mình hết mức có thể, họ sẵn sàng lật ngửa chiếc ghế mây lên để cho con ngồi vào trong (việc rất ít làm vì trái quy luật thực tế). Nhưng khi cô gái lớn lên trở thành xinh đẹp thì đầu tiên, họ muốn gả cô cho một nhà giàu có với mục đích để có được nhiều tiền, tiếp theo là họ quyết tâm ép gả cô cho nhà giàu (nghe đồn thế) để nhẫn tâm phá tan tình yêu trong sáng của cô. Họ còn tàn nhẫn hơn khi cô bị hành hạ tới mức thay đổi cả nhân hình họ vẫn không tha, họ bán đứt cô cho nhà chồng thứ hai. Suy cho cùng, sự nhẫn tâm ấy xuất phát từ sự cuốn hút của tiền bạc. Ở góc độ lý luận văn học và cả mỹ học thì hệ thống nhân vật này được coi là nhân vật bi kịch, nhưng là nhân vật tự bi kịch. Tất cả sự tha hóa của họ đều xuất phát từ ý thức, nhận thức và khát vọng của nhân vật mà không hề có sự tác động ngoại cảnh nào, xuất phát điểm của nó là sự tham lam và tàn nhẫn. Thế nhưng, xét ở góc độ xã hội học thì sự phát triển nhân cách như thế lại là hệ quả của nhận thức xã hội về giá trị vật chất, đồng tiền đã khiến họ mất dần tình yêu thương, tình mẫu tử. 

Như vậy, tác giả dân gian Thái dù vô tình hay chủ ý cũng đều đã ý thức được việc phải xây dựng kiểu nhân vật này là đại diện cho tầng lớp những người mà nhân tâm của họ bị bào mòn dần dần cho tới khi trở thành con người tàn nhẫn, tàn nhẫn để đạt mục đích cuối cùng của mình. Suy cho cùng, hệ thống nhân vật này cũng phát triển một cách tự nhiên, duy chỉ có điều họ phát triển không cân bằng mà thôi. Khát vọng vật chất luôn đồng hành với con người từ trước tới nay, mong muốn giàu có là nguyện vọng chính đáng, vừa là mong muốn mang tính xã hội, vừa là mong muốn mang tính bản năng của con người. Cái lệch của nhân vật tự bi kịch trong tác phẩm này là sự thiếu hài hòa trong tình thương và khát vọng tiền bạc. Đầu tiên họ cũng muốn ép gả cô gái cho người chồng thứ nhất vì nghe tin gia đình này hết sức giàu có với hy vọng cô được sung sướng, được ăn trắng mặc trơn mà bố mẹ lại có được nhiều tiền. Sức hút của đồng tiền đã thắng thế trong cuộc đấu tranh giữa đồng ý cho cô lấy người mình yêu thì họ chẳng được gì (vì chàng quá nghèo) với việc ép gả cô thì họ sẽ có nhiều tiền, và họ đã ép duyên cô một cách phũ phàng... 

(Theo Nguyễn Ngọc Bảo, Xống chụ xon xao, nhìn từ góc độ mỹ học,  

 Văn nghệ số 12/2020) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu luận đề của văn bản 

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu luận điểm của văn bản. Điểm sáng tạo của tác giả khi nêu luận điểm là gì? 

Câu 3 (1 điểm). Chỉ ra những lí lẽ và bằng chứng được tác giả sử dụng trong đoạn văn bản trên. Nhận xét mối quan hệ của lí lẽ, bằng chứng với luận điểm. 

Câu 4 (1 điểm). Những yếu tố bổ trợ trong đoạn văn bản trên. Mục đích của luận điểm. 

Câu 5 (1 điểm). Đọc lại đoạn văn sau và xác định là dẫn chứng hay lí lẽ? Nó có vai trò gì đối với luận điểm. Điều đó giúp anh/chị có thêm thuận lợi gì khi viết văn bản nghị luận truyện thơ. 

Đầu tiên họ cũng muốn ép gả gái cho người chồng thứ nhất nghe tin gia đình này hết sức giàu với hy vọng được sung sướng, được ăn trắng mặc trơn bố mẹ lại được nhiều tiền.

31

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

Hệ thống nhân vật bị đọa đày: Anh Yêu Em Yêu. Họ là biểu tượng của cái đẹp trong tất cả mọi khía cạnh, mà trước hết là cái đẹp tự thân, cái đẹp vật chất. Họ là một đôi trai tài gái sắc, giữa họ cũng đã nảy sinh một tình yêu chân thành đẹp đẽ, họ cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc... Tất cả những yếu tố đó xuất hiện từ tự thân chủ thể nhân vật trữ tình. Nhưng quan trọng hơn cả là đôi trai gái ấy mang vẻ đẹp tinh thần cao thượng. Họ đã chung thủy với nhau trong bất kỳ hoàn cảnh nào, từ việc họ bị can thiệp một cách đầy bạo lực bởi sự phản đối và hành động ép duyên của bố mẹ cô gái đến cả khi rơi vào các đỉnh điểm bi kịch của cuộc đời. Tình yêu và lòng chung thủy khiến chàng trai phải đối mặt với muôn vàn cực nhọc mong kiếm được nhiều tiền để chuộc người yêu, còn cô gái thì lâm vào cảnh sống trong đau đớn về tinh thần, một mặt oán trách cha mẹ, một mặt thương nhớ người yêu, mong chờ từng ngày chàng sẽ trở về để chuộc mình ra, nhưng càng chờ càng bặt tăm. Ngay cả trong tình huống trớ trêu nhất của số phận là đến đúng ngày chàng trở về với tài sản giàu có thì cũng là ngày cô về nhà chồng. Theo phong tục, chàng đã không còn cơ hội để chuộc người yêu nữa nhưng chàng vẫn một lòng tin tưởng “không lấy được nhau lúc trẻ sẽ hẹn nhau khi góa bụa về già”. 

 Bi kịch cuộc đời vẫn đeo bám cô gái khi bị người chồng thứ nhất xua đuổi về nhà rồi lại bị bán cho người chồng thứ hai, rồi người chồng thứ hai đem cô ra chợ bán với giá hai cuộn lá dong. Bi kịch cuối cùng cô gặp phải là người mua cô chính là Anh Yêu ngày nào, nhưng anh đã không nhận ra cô và anh cũng đã có một gia đình yên ấm. Ngay cả trong lúc đó cô cũng không hề trách móc gì anh, đó là cách xử lý hết sức cao thượng. Khái lược như vậy đã chứng minh rất rõ tác giả dân gian Thái đã có dụng ý xây dựng biểu tượng cái đẹp qua hình tượng Anh Yêu và Em Yêu, thể hiện triết lý tình yêu đẹp là tình yêu chung thủy, là sự đấu tranh đến cùng vì một tình yêu chân chính. 

(Theo Nguyễn Ngọc Bảo, Xống chụ xon xao, nhìn từ góc độ mỹ học,  Văn nghệ số 12/2020) 

 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn) Câu 1 (0,5 điểm). Nêu luận đề của văn bản. 

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu luận điểm của văn bản. Điểm sáng tạo của tác giả khi nêu luận điểm là gì? 

Câu 3 (1 điểm). Vì sao, tác giả khẳng định tình yêu của Anh Yêu và Em Yêu là tình yêu cao thượng? 

Câu 4 (1 điểm). Ở luận điểm 2 tác giả sử dụng lý lẽ nhiều hơn hay dẫn chứng nhiều hơn? Và sử dụng dạng dẫn chứng nào? 

Câu 5 (1 điểm). Luận điểm số 2 có vai trò như thế nào đối với luận đề? Anh/chị có đồng ý với ý kiến: Hệ thống nhân vật bị đọa đày: Anh Yêu Em Yêu. Họ biểu tượng của cái đẹp trong tất cả mọi khía cạnh trước hết cái đẹp tự thân, cái đẹp vật chất không? Vì sao? 

32

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

Vượt qua khuôn mẫu kết thúc cổ tích: Một vấn đề đặt ra là việc Anh Yêu xử lý tình huống cuối tác phẩm có nhẫn tâm quá không khi trả người vợ chính thức về nhà để nối lại tình xưa với Em Yêu, và tại sao những nhân vật đọa đày không phải chịu một hình phạt nào, như vậy tác phẩm có còn giá trị nhân đạo nữa hay không? Và chắc rằng nhiều người sẽ thỏa mãn hơn nếu như bố mẹ cô gái gặp phải một tai họa nào đấy là hậu quả do chính họ gây ra, đó là kiểu tiếp cận tác phẩm theo hướng của chủ nghĩa hình thức mà biểu hiện của nó là một số người đã lên tiếng đòi cắt tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao khỏi chương trình giáo dục phổ thông, hoặc lên tiếng chỉ trích truyện cổ tích Tấm Cám nguyên bản có kết thúc rùng rợn (Tấm đổ nước sôi giết Cám rồi làm mắm gửi cho dì ghẻ) là không phù hợp với bản chất hiền lành của Tấm? Ấy là do họ đã “bứng” tác phẩm văn học dân gian ra khỏi bối cảnh thời đại khi nó xuất hiện. Đối với Xống chụ xon xao cũng thế, sự nhận thức cái đẹp (mỹ cảm) của thời đại đó đã cho phép tác phẩm kết thúc như vậy. Kiểu kết thúc tác phẩm thể hiện quan niệm triết lý “ác giả ác báo” là kiểu kết thúc của truyện cổ tích, Xống chụ xon xao đã vượt qua khuôn mẫu kết thúc cổ tích bình thường để nhắm tới giá trị nhân sinh. 

(Theo Nguyễn Ngọc Bảo, Xống chụ xon xao, nhìn từ góc độ mỹ học,  Văn nghệ số 12/2020) 

 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu luận đề của văn bản 

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu luận điểm của văn bản. Điểm sáng tạo của tác giả khi nêu luận điểm là gì? 

Câu 3 (1 điểm). Tác giả đã sử dụng những lý lẽ nào để khẳng định Xống chụ xon xao có kết thúc vượt qua khuôn mẫu kết thúc cổ tích?

Câu 4 (1 điểm). Tác giả có cách kết thúc văn bản độc đáo như thế nào? Chúng tác động như thế nào tới nhận thức của độc giả? 

Câu 4 (1 điểm). Đánh giá mục đích, ý nghĩa của văn bản “Xống chụ xon xao, từ góc nhìn mỹ học”. Niềm tin của chàng trai “không lấy được nhau lúc trẻ sẽ hẹn nhau khi góa bụa về già” gợi cho em suy nghĩ gì về lòng chung thủy trong tình yêu? 

ĐỀ 33

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

AI CÁC CÔNG NGHỆ MỚI NỔI

ĐƯỢC SỬ DỤNG HỖ TRỢ CỨU NẠN NHƯ THẾ NÀO? (Trích) 

Công nghệ đang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ thúc đẩy nhanh các nỗ lực cứu hộ, cứu trợ nhân đạo, về lâu dài sẽ giúp các cộng đồng trở nên bền vững hơn.

 

Ảnh: Nguồn internet

Các công nghệ mới nổi đã trở thành một trong những yếu tố chính trong các nỗ lực cứu trợ thiên tai và đã được sử dụng từ đầu những năm 2000. Đặc biệt, trận động đất kép có sức tàn phá khủng khiếp xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria mới đây đã cho thấy vai trò quan trọng của công nghệ trong việc hỗ trợ các nỗ lực cứu trợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai. 

Khó có thể hình dung được quy mô tàn phá mà hai trận động đất mạnh 7,8 và 7,5 độ richter đã gây ra cho khu vực này. Vào ngày 15/2, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố đây là thảm họa tồi tệ nhất ảnh hưởng đến khu vực 53 quốc gia châu Âu trong một thế kỷ qua. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres đã mô tả đây là một “thảm họa thiên nhiên khủng khiếp” khi đưa ra lời kêu gọi hỗ trợ gọi khẩn cấp dành cho những người bị ảnh hưởng. 

 

Cả hai quốc gia chịu thiệt hại nặng nề của trận động đất đều đã nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ, đóng góp tài chính và các giải pháp từ cứu hộ từ các quốc gia trên toàn thế giới. Đặc biệt trong đó là sự hỗ trợ bởi các ứng dụng công nghệ hiện đại. 

  

Ảnh: Nguồn internet

 

Các công nghệ được sử dụng trong công tác cứu hộ cứu nạn sau trận động đất như thế nào? 

(Theo Tâm An, Tạp chí Thông tin Truyền thông  số ra ngày 30/7/2024) 

Lưu ý: Sapo xuất phát từ từ chapeau - cái mũ trong tiếng Pháp. Hiểu một cách đơn giản thì sapo chính là phần nội dung mở đầu của bài viết và nằm ở vị trí đầu tiên của bài viết, ngay sau tiêu đề. Đoạn sapo có tác dụng giới thiệu hoặc tóm tắt nội dung của bài viết. Đôi lúc sapo cũng là đoạn văn để trích dẫn các thông tin, cụm từ, câu văn quan trọng, thú vị trong bài viết, hoặc dẫn dắt vào chủ đề của bài viết, giúp người đọc muốn khám phá, đọc chi tiết nội dung của bài viết. 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu ngắn gọn nội dung chính của đoạn văn bản trên. 

Câu 2 (0,5 điểm). Trong đoạn văn bản trên, tác giả đã sử dụng những tín hiệu phi ngôn ngữ gì? 

Câu 3 (1 điểm). Sapo và nhan đề chứa thông tin gì? Nhận xét về hiệu quả trong cách dùng từ ở nhan đề và sapo. 

Câu 4 (1 điểm). Nhận xét cách truyền tải thông tin. Từ đó xác định mục đích viết đoạn văn bản trên của tác giả là gì? 

Câu 5 (1 điểm). Những thông tin trong đoạn văn bản trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về vai trò của AI? Là học sinh, theo anh/chị cần phải làm gì để phát triển và sử dụng tiện ích mà AI mang lại? 

ĐỀ 34

PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm). Đọc đoạn văn bản sau: 

TRỜI HẠN, NÔNG NGHIỆP PHẢI THÔNG MINH HƠN (Trích)

Những hiện tượng thời tiết bất thường, cực đoan xuất hiện với tần suất ngày một dày hơn. Nông dân bất cứ đâu giờ cũng bất an thấp thỏm hơn trước những đỏng đảnh của ông trời. Biến đổi khí hậu “tội đồ” được gọi tên nhiều nhất. “Ông trời” đã biến đổi, không lẽ nông nghiệp vẫn đứng yên?

  

Ảnh: IAEA

Đã có nhiều giải pháp lớn nhỏ được tìm ra từ nỗ lực của các nhà khoa học nông nghiệp - những người bạn đồng hành quan trọng của nhà nông trên khắp thế giới. Nhờ họ, nông nghiệp đang trở nên thông minh và sáng tạo hơn, phần nào thích ứng và giảm bớt được tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu với mùa vụ. 

Lúa chịu nắng thu hoạch sau 100 ngày

[...] 

Ứng dụng công nghệ hạt nhân

[...] Tại các vùng khô khát ở Zimbabwe và nhiều khu vực châu Phi hạ 

Sahara, lượng mưa trung bình mỗi năm chỉ khoảng 250-300mm, thật đáng mừng khi giống đậu đũa mới được phát triển có thể sinh trưởng và cho năng suất tốt ở những điều kiện vô cùng khắc nghiệt. 

Không chỉ thế, các kỹ thuật hạt nhân như chiếu xạ thực phẩm với trái cây và rau củ tươi được sử dụng để cải thiện an toàn thực phẩm, ngăn chặn sự xâm lấn xuyên biên giới của các loài côn trùng, giảm tình trạng ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn gây ra. 

Cũng phải nhắc đến là sự phổ biến của kỹ thuật côn trùng vô sinh (Sterile Insect Technique - SIT) - tức kiểm soát côn trùng gây hại bằng chiếu xạ ion hóa để triệt sản chúng, mà không làm hại tới côn trùng có lợi và môi trường. 

Ở Việt Nam, kỹ thuật này đã được áp dụng tại Bình Thuận trong dự án thí điểm từ năm 2016 để diệt ruồi giấm, bảo vệ các vườn thanh long và tới năm 2019 đã ghi nhận những hiệu quả thực tế. 

Thay đổi duy làm nông nghiệp

“Biến đổi khí hậu đang buộc các nhà sản xuất lương thực và người nông dân thay đổi cách tiếp cận với nghề nông - bà María Caridad González Cepero, nhà khoa học tại Viện Khoa học nông nghiệp quốc gia Cuba, nói - Những giống cây trồng mới, như những giống lúa và đậu “bất chấp khí hậu", mang lại một lựa chọn bền vững khi phải thích ứng với một số tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, mà điều quan trọng là phải đảm bảo an ninh lương thực cho hôm nay và tương lai”. Cuba cũng đã đưa vào trồng giống lúa mới Guillemar có khả năng chịu hạn tốt và tăng sản lượng hơn 10% so với các giống khác. 

Việc phát triển giống cây trồng mới ngoài việc giúp nông dân thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, còn giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn cơ chế chịu tác động của cây trồng trước những thay đổi cực đoan của thời tiết, từ đó tinh chỉnh và cải thiện quá trình nhân giống hiệu quả hơn. 

FAO ước tính sản xuất lương thực phải tăng ít nhất 60% để đáp ứng nhu cầu của 9 tỉ người - dân số dự kiến trên quả đất vào năm 2050. Hiện cứ 8 người lại có 1 người thiếu ăn, theo FAO. 

(Theo D. Kim Thoa, Tuổi trẻ cuối tuần, số ra ngày 31/7/2024) 

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trả lời ngắn gọn)

Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra những dấu hiệu hình thức để nhận biết văn bản thông tin trong đoạn trích trên. 

Câu 2 (0,5 điểm). Nêu đề tài của đoạn văn bản trên. 

Câu 3 (1 điểm). Đọc đoạn văn bản sau:  

Tại các vùng khô khát Zimbabwe nhiều khu vực châu Phi hạ Sahara, lượng mưa trung bình mỗi năm chỉ khoảng 250‐300mm, thật đáng mừng khi giống đậu đũa mới được phát triển thể sinh trưởng cho năng suất tốt những điều kiện cùng khắc nghiệt.

Không chỉ thế, các kỹ thuật hạt nhân như chiếu xạ thực phẩm với trái cây rau củ tươi được sử dụng để cải thiện an toàn thực phẩm, ngăn chặn sự xâm lấn xuyên biên giới của các loài côn trùng, giảm tình trạng ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn gây ra.

Cũng phải nhắc đến sự phổ biến của kỹ thuật côn trùng sinh (Sterile Insect Technique SIT) tức kiểm soát côn trùng gây hại bằng chiếu xạ ion hóa để triệt sản chúng, không làm hại tới côn trùng lợi môi trường.

Việt Nam, kỹ thuật này đã được áp dụng tại Bình Thuận trong dự án thí điểm từ năm 2016 để diệt ruồi giấm, bảo vệ các vườn thanh long tới năm 2019 đã ghi nhận những hiệu quả thực tế. 

Anh/chị hãy cho biết những thông tin được cung cấp trong đoạn văn bản trên có vai trò như thế nào với toàn văn bản?

Câu 4 (1 điểm). Cấu trúc của văn bản Trời hạn, nông nghiệp phải thông minh hơn có gì đặc biệt so với những văn bản cùng loại? 

Câu 5 (1 điểm). Từ đoạn văn bản trên, anh/chị hiểu thêm điều gì về biến đổi khí hậu và năng lực thích ứng của con người? 


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đọc hiểu:Lời hứa của thời gian, Nguyễn Quang Thiều

TÓM TẮT CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ